Tìm kiếm
Truyên truyền phổ biến pháp luật về phòng chống tham nhũng Chương 3-1
False 11098Ngày cập nhật 19/03/2015

MỤC LỤC

1. Tìm hiểu pháp luật về khiếu nại:

Phần 1        Phần 2        Phần 3        Phần 4 Mục I        

Phần 4 Mục II        Phần 4 Mục III        Phần 4 Mục IV        Phần 4 Mục V

2. Tìm hiểu pháp luật về tố cáo:

Phần 1        Phần 2a        Phần 2b        Phần 3-5        Phần 6

3. Quyết định số 26 /2014/QĐ-UBND về Ban hành Quy định về việc tiếp nhận, xử lý đơn khiếu nại và giải quyết khiếu nại hành chính trên địa bàn tỉnh Thừa Thiên Huế

4. Thông tư số 06/2013/TT-TTCP Quy định quy trình giải quyết tố cáo

5. Thông tư số 07/2013/TT-TTCP Quy định quy trình giải quyết khiếu nại hành chính

6. Truyên truyền phổ biến pháp luật về phòng chống tham nhũng

Phần 1        Phần 2        Phần 3-1        Phần 3-2 

--------------------------------------------------------------------------------------

Chương III

CÁC GIẢI PHÁP PHÒNG, CHỐNG THAM NHŨNG

I-  CÁC GIẢI PHÁP PHÒNG NGỪA THAM NHŨNG

 

Phòng ngừa tham nhũng là một trong những nội dung lớn của Luật phòng, chống tham nhũng. Kinh nghiệm chống tham nhũng của các nước trên thế giới cho thấy, công tác phòng ngừa đóng vai trò rất quan trọng. Công ước của Liên hợp quốc về chống tham nhũng khuyến cáo các quốc gia thành viên lưu ý trong việc xây dựng và duy trì một chiến lược phòng ngừa tham nhũng liên tục, toàn diện và có hiệu quả. Pháp luật Việt Nam hiện hành quy định khá đầy đủ các biện pháp phòng ngừa đang được nhiều nước trên thế giới áp dụng hiện nay. Chính vì vậy, trong Luật phòng, chống tham nhũng năm 2005, số lượng điều khoản và nội dung về phòng ngừa tham nhũng chiếm tỉ lệ rất lớn, phần lớn những điểm mới trong quy định của pháp luật về chống tham nhũng nằm trong các biện pháp phòng ngừa tham nhũng. Các quy định về biện pháp phòng, ngừa tham nhũng được quy định tại chương này gồm có 6 mục với tổng số 48 điều quy định những nội dung cụ thể như sau:

1. Công khai, minh bạch trong hoạt động của cơ quan, tổ chức, đơn vị

Đây là biện pháp quan trọng đầu tiên để ngăn ngừa tham nhũng. Công khai, minh bạch sẽ tạo điều kiện để người dân cũng như toàn xã hội tham gia giám sát hoạt động của các cơ quan nhà nước. Với việc công khai minh bạch trong hoạt động tại các cơ quan nhà nước, người dân sẽ dễ dàng nhận biết và chủ động thực hiện các quyền và nghĩa vụ của mình cũng như đòi hỏi cơ quan Nhà nước và các cán bộ, công chức nhà nước thực hiện các quy định đó. Công khai, minh bạch sẽ làm cho công chức nhà nước có ý thức hơn trong việc thực hiện chức trách, công vụ của mình theo đúng trình tự, thủ tục, thẩm quyền mà pháp luật quy định bởi, mọi hành vi vi phạm, phiền hà, sách nhiễu hay lợi dụng chức trách để tư lợi đều có thể bị phát hiện và xử lý. “Công khai và minh bạch là những chìa khoá then chốt nhằm bảo đảm đấu tranh chống tham nhũng thành công[1].

Luật phòng, chống tham nhũng đưa ra các nguyên tắc cũng như thể chế hoá để bảo đảm cho việc thực hiện các nguyên tắc đó. Bên cạnh đó Luật phòng, chống tham nhũng quy định công khai, minh bạch trong một số lĩnh vực hoạt động cụ thể, những lĩnh vực dễ xảy ra tham nhũng.

 a) Nguyên tắc, nội dung và cơ chế bảo đảm thực hiện công khai, minh bạch trong hoạt động của cơ quan, tổ chức, đơn vị

Điều 11, Luật phòng, chống tham nhũng năm 2005 quy định:

- Chính sách, pháp luật và việc tổ chức thực hiện chính sách, pháp luật phải được tiến hành công khai, minh bạch, bảo đảm công bằng, dân chủ.

- Cơ quan, tổ chức, đơn vị phải công khai hoạt động của mình, trừ nội dung thuộc bí mật nhà nước và những nội dung khác theo quy định của Chính phủ.

Đây là một bước tiến rất lớn trong quá trình công khai hoá hoạt động của bộ máy nhà nước. Từ trước đến nay, chúng ta vẫn quy định hoạt động của các cơ quan nhà nước phải được công khai. Tuy nhiên, việc công khai mới dừng lại trong từng lĩnh vực hoặc một số hoạt động cụ thể. Tại Pháp lệnh chống tham nhũng năm 1998, vấn đề công khai cũng được đặt ra như một biện pháp quan trọng nhằm phòng ngừa tham nhũng nhưng chỉ giới hạn trong phạm vi rất hẹp, đó là thủ tục hành chính trong các lĩnh vực liên quan đến giải quyết công việc của công dân.

Điều 15, Pháp lệnh chống tham nhũng năm 1998 quy định:

- Cơ quan, tổ chức có thẩm quyền quản lý trong lĩnh vực nhà đất, xây dựng, đăng ký kinh doanh, xét duyệt dự án, cấp vốn ngân sách nhà nước, tín dụng ngân hàng, xuất nhập khẩu, xuất nhập cảnh, quản lý hộ khẩu, thuế, hải quan, bảo hiểm và các cơ quan khác trực tiếp giải quyết công việc của cơ quan, tổ chức, cá nhân phải công khai thủ tục hành chính, giải quyết đúng thời hạn, đúng pháp luật và đúng yêu cầu hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân…

- Việc cấp phát, sử dụng kinh phí ngân sách nhà nước, vốn và tài sản của Nhà nước cho các dự án, chương trình có mục tiêu đã được cơ quan, tổ chức có thẩm quyền phê duyệt phải thực hiện theo đúng quy định của pháp luật, đúng nội dung đã được phê duyệt và phải công khai cho các cơ quan, tổ chức có liên quan và nhân dân nơi trực tiếp sử dụng biết.

- Việc huy động nguồn vốn đóng góp của nhân dân để đầu tư xây dựng các công trình, lập các quỹ ngoài quy định của Nhà nước phải được nhân dân bàn bạc, quyết định. Việc sử dụng nguồn vốn đó phải đúng mục đích, công khai để nhân dân giám sát và chịu sự thanh tra, kiểm tra của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền.

Luật phòng, chống tham nhũng năm 2005 quy định công khai, minh bạch trở thành một nguyên tắc chung cho hoạt động của mọi cơ quan, tổ chức, đơn vị. Các cơ quan, tổ chức, đơn vị không được lấy lý do nào khác để từ chối việc công khai hoạt động của mình nhằm tránh sự kiểm soát của người dân và xã hội trừ những nội dung thuộc bí mật nhà nước.

Ngoài việc đưa ra nguyên tắc chung như đã phân tích ở trên, Luật phòng, chống tham nhũng năm 2005 đã có những quy định cụ thể để nguyên tắc này được bảo đảm thực hiện trên thực tế, đó là việc quy định hình thức công khai và quyền yêu cầu cung cấp thông tin của cá nhân và tổ chức.

Khoản 1, Điều 12, Luật phòng, chống tham nhũng năm 2005 quy định các hình thức công khai bao gồm:

- Công bố tại cuộc họp của cơ quan, tổ chức, đơn vị;

- Niêm yết công khai tại trụ sở làm việc của cơ quan, tổ chức, đơn vị;

- Thông báo bằng văn bản đến cơ quan, tổ chức, đơn vị, cá nhân có liên quan;

- Phát hành ấn phẩm;

- Thông báo trên các phương tiện thông tin đại chúng;

- Đưa lên trang thông tin điện tử;

- Cung cấp thông tin theo yêu cầu của cơ quan, tổ chức, cá nhân.

Như vậy, các cơ quan, tổ chức, đơn vị phải lựa chọn sử dụng một hoặc một số hình thức công khai nêu trên. Luật phải quy định cụ thể như vậy để tránh việc cơ quan, tổ chức, đơn vị thực hiện công khai một cách hình thức, tuỳ tiện và né tránh công khai sự thật.

Trên thực tế, có những trường hợp, pháp luật quy định cụ thể hình thức công khai có tính chất bắt buộc đối với một hoặc một số việc nào đó thì các cơ quan, tổ chức, đơn vị phải nghiêm chỉnh thực hiện.

Để bảo đảm nguyên tắc công khai, minh bạch được thực hiện, Luật phòng, chống tham nhũng năm 2005 quy định về quyền yêu cầu cung cấp thông tin, bao gồm hai loại: quyền yêu cầu cung cấp thông tin của cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, cơ quan báo chí và quyền yêu cầu cung cấp thông tin của cá nhân. Cụ thể như sau:

Khoản 1, Điều 31: Quyền yêu cầu cung cấp thông tin của cơ quan, tổ chức

Cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, cơ quan báo chí trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có quyền yêu cầu cơ quan, tổ chức, đơn vị có trách nhiệm cung cấp thông tin về hoạt động của cơ quan, tổ chức, đơn vị mình theo quy định của pháp luật.

Để bảo đảm nguyên tắc công khai, minh bạch, pháp luật quy định việc cung cấp thông tin là trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức nhưng để tạo điều kiện cho việc thực hiện quy định nàytrên thực tế không gây khó khăn cho cơ quan, tổ chức thì quyền yêu cầu cung cấp thông tin và trách nhiệm trả lời yêu cầu này cũng có những hạn chế nhất định, cụ thể như sau:

Một là, các cơ quan, tổ chức hoặc báo chí được quyền yêu cầu cung cấp thông tin trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình chứ không phải bất kỳ thông tin nào mà mình muốn, chỉ những thông tin cần thiết cho việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn hoặc liên quan đến cơ quan, tổ chức mình thì mới có quyền yêu cầu được cung cấp. Chẳng hạn, cơ quan nhà nước có thể yêu cầu cung cấp thông tin liên quan đến trách nhiệm quản lý của cơ quan nhà nước đó; tổ chức chính trị - xã hội có quyền yêu cầu cung cấp thông tin liên quan đến việc thực hiện quyền, nghĩa vụ của các thành viên tổ chức đó; cơ quan báo chí có quyền yêu cầu cung cấp thông tin để phục vụ cho tác nghiệp báo chí…

Hai là, cơ quan, tổ chức, đơn vị chỉ có trách nhiệm cung cấp thông tin liên quan đến hoạt động của mình theo quy định của pháp luật.

Kèm theo việc yêu cầu cung cấp thông tin, khoản 2, Điều 31, Luật phòng, chống tham nhũng năm 2005 đã ấn định thời hạn trả lời để tránh tình trạng cơ quan, tổ chức đã nhận được yêu cầu nhưng lại tìm cách trốn tránh trách nhiệm cung cấp thông tin của mình:

Trong thời hạn mười ngày, kể từ ngày nhận được yêu cầu, cơ quan, tổ chức, đơn vị được yêu cầu phải cung cấp thông tin, trừ trường hợp nội dung thông tin đã được công khai trên các phương tiện thông tin đại chúng, được phát hành ấn phẩm hoặc niêm yết công khai; trường hợp không cung cấp hoặc chưa cung cấp được thì phải trả lời bằng văn bản cho cơ quan, tổ chức yêu cầu biết và nêu rõ lý do.

 Có thể thấy, pháp luật quy định rất cụ thể về quyền yêu cầu cung cấp thông tin, vừa bảo đảm các cơ quan, tổ chức đơn vị phải thực hiện nguyên tắc công khai hoá, vừa cố gắng để việc thực hiện trách nhiệm này mà không ảnh hưởng nhiều đến hoạt động bình thường của cơ quan, tổ chức, đơn vị được yêu cầu. Trường hợp nội dung được yêu cầu đã được công khai trên các phương tiện thông tin đại chúng, được phát hành ấn phẩm hoặc niêm yết công khaithì cơ quan, tổ chức, đơn vị được yêu cầu có trách nhiệm hướng dẫn cơ quan, tổ chức yêu cầu tiếp cận thông tin đó.

Về quyền yêu cầu cung cấp thông tin của cá nhân, Điều 32, Luật phòng, chống tham nhũng năm 2005 quy định:

- Cán bộ, công chức, viên chức và người lao động khác có quyền yêu cầu người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị nơi mình làm việc cung cấp thông tin về hoạt động của cơ quan, tổ chức, đơn vị đó.

- Công dân có quyền yêu cầu chủ tịch uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn nơi mình cư trú cung cấp thông tin về hoạt động của uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn đó.

- Trong thời hạn mười ngày, kể từ ngày nhận được yêu cầu, người được yêu cầu có trách nhiệm cung cấp thông tin, trừ trường hợp nội dung thông tin đã được công khai trên các phương tiện thông tin đại chúng, được phát hành ấn phẩm hoặc được niêm yết công khai; trường hợp không cung cấp hoặc chưa cung cấp được thì phải trả lời bằng văn bản cho người yêu cầu biết và nêu rõ lý do.

Có thể thấy rằng, quyền yêu cầu cung cấp thông tin của cá nhân chỉ giới hạn trong phạm vi địa phương, cơ sở, tức là tại cơ quan, tổ chức, đơn vị mà người yêu cầu làm việc hoặc tại địa phương mà người đó cứ trú. Đây là những nơi pháp luật cho phép người dân được giám sát trực tiếp hoạt động của các cơ quan, tổ chức, chính quyền cũng như phần lớn các quyền và lợi ích của công dân được thực hiện tại địa phương, cơ sở nên cần tạo điều kiện để họ có thông tin để giám sát, phát hiện, kiến nghị cơ quan nhà nước có thẩm quyền có biện pháp xử lý đối với những biểu hiện tiêu cực, tham nhũng, đồng thời, phát huy dân chủ ở cơ sở.

Bảo đảm quyền yêu cầu cung cấp thông tin là một nội dung rất quan trọng và có tác dụng thiết thực vào việc phòng ngừa tham nhũng, hơn nữa đây là vấn đề rất mới. Chính vì vậy, để có cơ sở thực hiện thật tốt điều này, Nghị định số 120/2006/NĐ-CP ngày 20-10-2006 quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật phòng, chống tham nhũng (sau đây gọi tắt là Nghị định số 120) đã dành nhiều quy định vừa cụ thể hoá vừa thướng dẫn để các các cơ quan, tổ chức, cá nhân có nghĩa vụ cung cấp thông tin cũng như có yêu cầu về thông tin có thể thực hiện một cách thuận lợi.

Trước hết, Nghị định số 120 xác định rất rõ quyền và nghĩa vụ của người có yêu cầu cung cấp thông tin và người có trách nhiệm cung cấp thông tin:

Điều 6 quy định về quyền và nghĩa vụ của cơ quan, tổ chức, cá nhân yêu cầu cung cấp thông tin như sau:

- Cơ quan tổ chức, cá nhân yêu cầu cung cấp thông tin có các quyền sau đây:

+ Yêu cầu cung cấp thông tin về hoạt động của cơ quan, tổ chức, đơn vị theo quy định tại Điều 31 và Điều 32, Luật phòng, chống tham nhũng;

+ Được nhận thông tin đã yêu cầu hoặc nhận văn bản trả lời về việc từ chối cung cấp thông tin;

+ Khiếu nại về việc không cung cấp thông tin hoặc không thực hiện nghĩa vụ cung cấp thông tin theo đúng quy định của pháp luật.

- Cơ quan, tổ chức, cá nhân yêu cầu cung cấp thông tin có các nghĩa vụ sau đây:

+ Yêu cầu cung cấp thông tin bằng văn bản có ghi rõ họ, tên, địa chỉ, lý do của việc yêu cầu cung cấp thông tin;

+ Thực hiện quyền yêu cầu cung cấp thông tin theo quy định tại Luật phòng, chống tham nhũng và Nghị định này;

+ Không được lợi dụng quyền yêu cầu cung cấp thông tin để gây rối hoặc để thực hiện các hành vi trái pháp luật gây thiệt hại cho cơ quan, tổ chức, cá nhân;

+ Chấp hành quyết định giải quyết khiếu nại có hiệu lực pháp luật về việc thực hiện yêu cầu cung cấp thông tin.

Điều 7 quy định về quyền và nghĩa vụ của cơ quan, tổ chức, đơn vị, cá nhân được yêu cầu cung cấp thông tin như sau:

- Cơ quan, tổ chức, đơn vị, cá nhân được yêu cầu cung cấp thông tin có các quyền sau đây:

+ Được biết lý do của việc yêu cầu cung cấp thông tin;

+ Từ chối cung cấp các thông tin thuộc bí mật nhà nước và những nội dung khác theo quy định của Chính phủ, thông tin đã được công khai trên các phương tiện thông tin đại chúng, phát hành ấn phẩm hoặc niêm yết công khai, thông tin không liên quan đến hoạt động của cơ quan, tổ chức, đơn vị được yêu cầu;

+ Yêu cầu người được cung cấp thông tin sử dụng thông tin đó hợp pháp và bảo đảm tính chính xác khi sử dụng thông tin đó.

- Cơ quan, tổ chức, đơn vị, cá nhân được yêu cầu cung cấp thông tin có các nghĩa vụ sau đây:

+ Cung cấp thông tin bằng văn bản hoặc thông điệp dữ liệu cho cơ quan, tổ chức, cá nhân theo đúng trình tự, thủ tục, thời hạn được quy định tại Luật phòng, chống tham nhũng và Nghị định này;

+ Trả lời bằng văn bản và nêu rõ lý do cho cơ quan, tổ chức, cá nhân yêu cầu cung cấp thông tin biết trong trường hợp không cung cấp hoặc chưa cung cấp được;

+ Hướng dẫn tiếp cận thông tin được yêu cầu trong trường hợp thông tin đó đã được công khai trên các phương tiện thông tin đại chúng, được phát hành ấn phẩm hoặc niêm yết công khai;

+ Chấp hành quyết định giải quyết khiếu nại có hiệu lực pháp luật về việc thực hiện yêu cầu cung cấp thông tin.

Những quy định trên đã khá đầy đủ và rõ ràng, bảo đảm sự cân đối giữa quyền và nghĩa vụ, giữa người có quyền được cung cấp và người được yêu cầu cung cấp thông tin. Đây là điều kiện quan trọng để công dân, cơ quan, tổ chức có được những thông tin cần thiết cho việc thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình, góp phần ngăn ngừa tham nhũng; đồng thời, việc thực hiện quyền yêu cầu cung cấp thông tin cũng không ảnh hưởng tới hoạt động bình thường hay gây thiệt hại đến quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân khác.

Nghị định số 107/2006/NĐ-CP ngày 22-9-2006 quy định xử lý trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị khi để xảy ra tham nhũng trong cơ quan, tổ chức, đơn vị do mình quản lý, phụ trách (sau đây gọi tắt là Nghị định số 107) quy định về trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị trong việc cung cấp thông tin theo yêu cầu của cơ quan, tổ chức, cá nhân tại Điều 8 như sau: Người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị có trách nhiệm tổ chức, chỉ đạo việc cung cấp thông tin; chịu trách nhiệm về việc vi phạm nghĩa vụ cung cấp thông tin của cơ quan, tổ chức, đơn vị mình theo quy định tại Luật phòng, chống tham nhũng, Nghị định này và các quy định khác của pháp luật.

Quy định này thể hiện xu hướng chung hiện nay đó là phải đề cao trách nhiệm của người đứng đầu trong hoạt động của cơ quan, tổ chức đơn vị. Chỉ có như vậy thì việc thực hiện trách nhiệm công vụ nói chung cũng như việc thực hiện nghĩa vụ cung cấp thông tin nói riêng mới được quan tâm và thực hiện nghiêm chỉnh.

Nghị định số 120 cũng quy định hình thức yêu cầu cung cấp thông tin của cơ quan, tổ chức, cá nhân tại Điều 9 như sau:

- Việc yêu cầu cung cấp thông tin được thực hiện bằng văn bản hoặc thông điệp dữ liệu.

- Văn bản hoặc thông điệp dữ liệu yêu cầu cung cấp thông tin được chuyển trực tiếp, gửi qua đường bưu điện hoặc qua giao dịch điện tử cho cơ quan, tổ chức, đơn vị, cá nhân được yêu cầu.

Để hướng dẫn cho các cơ quan, tổ chức, cá nhân thực hiện đúng trách nhiệm cung cấp thông tin của mình, Nghị định số 120 quy định:

- Trong thời hạn mười ngày kể từ ngày nhận được yêu cầu cung cấp thông tin, cơ quan, tổ chức, đơn vị, cá nhân được yêu cầu cung cấp thông tin phải tiến hành một trong các hoạt động sau:

- Thực hiện việc cung cấp thông tin khi nội dung thông tin được yêu cầu đáp ứng các điều kiện sau:

+ Thuộc phạm vi công khai theo quy định của Luật phòng, chống tham nhũng và Nghị định này;

+ Thuộc phạm vi hoạt động của cơ quan, tổ chức, đơn vị, cá nhân được yêu cầu;

+ Chưa được công khai trên các phương tiện thông tin đại chúng, phát hành ấn phẩm hoặc niêm yết công khai.

- Trả lời bằng văn bản về việc không cung cấp thông tin cho cơ quan, tổ chức, cá nhân yêu cầu trong trường hợp nội dung thông tin được yêu cầu không đáp ứng các điều kiện được quy định tại khoản 1 Điều này và nêu rõ lý do.

- Nếu thông tin được yêu cầu đã được công khai trên các phương tiện thông tin đại chúng, phát hành ấn phẩm hoặc niêm yết công khai thì trong văn bản trả lời phải có hướng dẫn cách thức tiếp cận thông tin đó.

 Trên đây là những trình tự, thủ tục cụ thể để thực hiện việc yêu cầu cung cấp thông tin theo ba trường hợp:

- Cung cấp thông tin nếu đáp ứng đủ điều kiện;

- Trả lời và nêu rõ lý do trong trường hợp từ chối cung cấp thông tin;

- Hướng dẫn người có yêu cầu tiếp cận thông tin nếu thông tin được yêu cầu đã được công bố trên phương tiện thông tin đại chúng.

Cuối cùng, tại Điều 11 Nghị định số 120 quy định các biện pháp nhằm bảo đảm thực hiện tốt quy định về việc cung cấp thông tin, đặc biệt coi việc cung cấp thông tin trái pháp luật như là một hành vi vi phạm có thể bị khiếu nại tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền.

- Trong trường hợp cơ quan, tổ chức, cá nhân yêu cầu cung cấp thông tin có căn cứ cho rằng việc cung cấp thông tin là chưa đầy đủ hoặc trái pháp luật thì có quyền khiếu nại.

- Việc khiếu nại và giải quyết khiếu nại về quyền yêu cầu cung cấp thông tin được thực hiện theo quy định của pháp luật về khiếu nại.

- Trường hợp người bị khiếu nại do Thủ tướng Chính phủ bổ nhiệm hoặc là người đứng đầu cơ quan trung ương của các tổ chức chính trị - xã hội thì khiếu nại lên Trưởng Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng.

Điều 12, Nghị định số 120 cũng quy định các biện pháp xử lý đối với người có quyền yêu cầu cung cấp thông tin cũng như người có nghĩa vụ cung cấp thông tin theo quy định của pháp luật:

- Người được yêu cầu cung cấp thông tin mà không thực hiện đúng các nghĩa vụ về cung cấp thông tin theo quy định của Luật phòng, chống tham nhũng và Nghị định này thì tuỳ theo tính chất, mức độ vi phạm mà bị xử lý kỷ luật hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định của pháp luật.

- Người nào lợi dụng quyền yêu cầu cung cấp thông tin để gây rối hoặc sử dụng trái pháp luật thông tin được cung cấp gây thiệt hại đến quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân thì tuỳ theo tính chất, mức độ vi phạm mà bị xử lý kỷ luật, xử phạt hành chính hoặc truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định của pháp luật.

Đây là nội dung đặc biệt quan trọng và khá mới đối với chúng ta. Trên thực tế các nước trên thế giới luôn coi quyền được thông tin và việc tiếp cận thông tin là một giải pháp quan trọng, tạo điều kiện cho sự tham gia tích cực và có hiệu quả của xã hội vào cuộc đấu tranh chống tham nhũng. Hiện nay, trên thế giới có 68 quốc gia (trong đó tại khu vực châu Á - Thái Bình Dương có 6 quốc gia) có luật về tiếp cận thông tin. Nghị quyết Trung ương 3 khóa X vừa qua cũng đã có định hướng về việc nghiên cứu ban hành Luật bảo đảm quyền được thông tin của công dân. Thực hiện chủ trương này, hiện nay, Chính phủ đã giao cho các cơ quan có trách nhiệm chuẩn bị Dự thảo Luật về bảo đảm tiếp cận thông tin để trình các cơ quan có thẩm quyền trong thời gian tới.

b) Quy định về công khai minh bạch trong một số lĩnh vực cụ thể

Ngoài việc nêu nguyên tắc và cơ chế bảo đảm công khai minh bạch trong hoạt động của các cơ quan, tổ chức đơn vị nói chung, Luật phòng, chống tham nhũng năm 2005 quy định những nội dung công khai, minh bạch trong một số lĩnh vực mà thực tế xảy ra nhiều tham nhũng, gây thất thoát một lượng lớn tiền, tài sản của Nhà nước cũng như có nhiều sự phiền hà, sách nhiễu.

- Công khai, minh bạch trong mua sắm công và xây dựng cơ bản.

Mua sắm công và xây dựng cơ bản là những lĩnh vực sử dụng phần lớn ngân sách nhà nước, đồng thời cũng là lĩnh vực mà Công ước của Liên hợp quốc về chống tham nhũng khuyến cáo các nước cần đặc biệt quan tâm trong công tác đấu tranh chống tham nhũng. Trên thực tế chúng ta có thuận lợi rất lớn để thực hiện quy định này, bởi vì song song với việc ban hành Luật phòng, chống tham nhũng, Quốc hội cũng ban hành Luật đấu thầu năm 2005, trong đó quy định khá đầy đủ và chi tiết về vấn đề đấu thầu trong mua sắm công. Luật phòng, chống tham nhũng năm 2005 chỉ nêu ra những nội dung bắt buộc phải công khai để phòng ngừa những hành vi tham nhũng trong quá trình thực hiện mua sắm công và xây dựng cơ bản. Các nội dung công khai về đấu thầu bao gồm:

+ Kế hoạch đấu thầu, mời sơ tuyển và kết quả sơ tuyển, mời thầu;

+ Danh mục nhà thầu tham gia đấu thầu hạn chế, danh sách ngắn nhà thầu tham gia đấu thầu hạn chế, kết quả lựa chọn nhà thầu;

+ Thông tin về cá nhân, tổ chức thuộc chủ dự án, bên mời thầu, nhà thầu, cơ quan quản lý hoặc đối tượng khác vi phạm pháp luật về đấu thầu; thông tin về nhà thầu bị cấm tham gia và thông tin về xử lý vi phạm pháp luật về đấu thầu;

+ Văn bản quy phạm pháp luật về đấu thầu, hệ thống thông tin dữ liệu về đấu thầu;

+ Báo cáo tổng kết công tác đấu thầu trên phạm vi toàn quốc của Bộ Kế hoạch và Đầu tư; báo cáo tổng kết công tác đấu thầu của bộ, ngành, địa phương và cơ sở;

+ Thẩm quyền, thủ tục tiếp nhận và giải quyết khiếu nại, tố cáo trong đấu thầu.

- Công khai, minh bạch trong quản lý dự án đầu tư xây dựng .

Thực tế công tác thanh tra, kiểm tra trong những năm qua cho thấy, đây là lĩnh vực xảy ra nhiều tham nhũng và gây bức xúc cho người dân, làm thất thoát một khối lượng lớn tài sản của Nhà nước và là một trong những nguyên nhân gây ra tình trạng khiếu tố đông người, phức tạp. Bởi vì, trong quá trình quy hoạch và thực hiện quy hoạch, một số quan chức đã lợi dụng chức vụ, quyền hạn, cố tình thực hiện hành vi vi phạm vì tư lợi. Vì vậy, trong quá trình tổng hợp ý kiến đóng góp vào Dự thảo Luật phòng, chống tham nhũng nhiều ý kiến cho rằng, vấn đề này cần phải được công khai để dân biết và phải lấy ý kiến nhân dân cũng như phải do hội đồng nhân dân địa phương, người đại diện cho nhân dân xem xét quyết định. Điều 14 của Luật phòng, chống tham nhũng năm 2005 quy định:

+ Dự án quy hoạch đầu tư xây dựng phải được lấy ý kiến của nhân dân địa phương nơi quy hoạch.

+ Dự án đầu tư xây dựng từ ngân sách địa phương phải được hội đồng nhân dân xem xét, quyết định.

+ Dự án đầu tư xây dựng sau khi được quyết định, phê duyệt phải được công khai để nhân dân giám sát.

- Công khai, minh bạch về tài chính và ngân sách nhà nước

Từ khi ban hành Luật ngân sách nhà nước năm 2003, chúng ta đã từng bước công khai hoá việc xây dựng và thực hiện ngân sách. Vấn đề này đã được quy định trong nhiều văn bản pháp luật, Luật phòng, chống tham nhũng năm 2005 chỉ nêu ra một số nội dung có tính chất nhấn mạnh để ngăn ngừa tham nhũng như sau:

+ Các cấp ngân sách, đơn vị dự toán ngân sách phải công khai chi tiết số liệu dự toán và quyết toán đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền quyết định, phê chuẩn, kể cả khoản ngân sách bổ sung.

+ Đơn vị dự toán ngân sách có nguồn thu và các khoản chi từ các khoản đóng góp của tổ chức, cá nhân theo quy định của pháp luật phải công khai mục đích huy động, kết quả huy động và hiệu quả việc sử dụng các nguồn huy động.

+ Tổ chức được ngân sách nhà nước hỗ trợ phải công khai các nội dung: số liệu dự toán, quyết toán; khoản đóng góp của tổ chức, cá nhân (nếu có); cơ sở xác định mức hỗ trợ và số tiền ngân sách nhà nước hỗ trợ.

+ Dự án đầu tư xây dựng cơ bản có sử dụng vốn từ ngân sách nhà nước phải công khai các nội dung: việc phân bổ vốn đầu tư trong dự toán ngân sách nhà nước được giao hằng năm cho các dự án; dự toán ngân sách của dự án đầu tư theo kế hoạch đầu tư được duyệt, mức vốn đầu tư của dự án được giao trong dự toán ngân sách năm; quyết toán vốn đầu tư của dự án hằng năm; quyết toán vốn đầu tư khi dự án hoàn thành đã được cấp có thẩm quyền phê duyệt.

+ Quỹ có nguồn từ ngân sách nhà nước phải công khai các nội dung: quy chế hoạt động và cơ chế tài chính của quỹ; kế hoạch tài chính hằng năm, trong đó chi tiết các khoản thu, chi có quan hệ với ngân sách nhà nước theo quy định của cấp có thẩm quyền; kết quả hoạt động của quỹ; quyết toán năm được cấp có thẩm quyền phê duyệt.

 + Việc phân bổ, sử dụng ngân sách, tài sản của Nhà nước cho các dự án, chương trình mục tiêu đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền phê duyệt phải công khai cho cơ quan, tổ chức, đơn vị hữu quan và nhân dân nơi trực tiếp thụ hưởng biết.

- Công khai, minh bạch việc huy động và sử dụng các khoản đóng góp của nhân dân.

Phương châm nhà nước và nhân dân cùng làm, phong trào vận động nhân dân đóng góp xây dựng “điện, đường, trường, trạm” ở nông thôn đã có những kết quả rất tốt trong điều kiện ngân sách của chúng ta còn hạn hẹp. Sự chung sức, chung lòng của toàn dân đã trở thành những cuộc vận động lớn, thể hiện tấm lòng tương thân tương ái đối với những người không may mắn hay gặp thiên tai, bão lũ. Thực tế cho thấy, làm tốt công tác này là điều kiện thuận lợi để chúng ta có thể vượt qua những khó khăn trong quá trình phát triển; đồng thời phát huy tích cực tinh thần đại đoàn kết toàn dân, như Hồ Chí Minh đã dạy: “Dễ trăm lần không dân cũng chịu; khó vạn lần dân liệu cũng xong”.

Huy động và đoàn kết toàn dân luôn là một chủ trương và mong muốn lớn của Đảng và Nhà nước ta trong đấu tranh giải phóng dân tộc và xây dựng đất nước. Tuy nhiên, cần phải biết sử dụng các nguồn lực đó một cách có hiệu quả và bảo đảm mục đích tốt đẹp của nó. Chúng ta không thể chấp nhận việc người dân chắt chiu gom góp, chia sẻ để cùng với Nhà nước vượt qua các khó khăn của đời sống xã hội nhưng lại bị một số người lợi dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt, phung phí. Thực tế cho thấy, đã có không ít những khoản đóng góp của nhân dân bị chiếm đoạt, sử dụng sai mục đích, không ít những hoạt động nhân đạo, từ thiện bị lợi dụng. Vì vậy, những hoạt động này cần phải được công khai để nhân dân giám sát và Nhà nước thanh tra, kiểm tra, ngăn chặn ngay mỗi khi có những biểu hiện không lành mạnh, không minh bạch. Điều 16 của Luật phòng, chống tham nhũng năm 2005 đã đưa ra nội dung cần công khai, minh bạch về các khoản đóng góp của nhân dân:

+ Việc huy động các khoản đóng góp của nhân dân để đầu tư xây dựng công trình, lập quỹ trong phạm vi địa phương phải lấy ý kiến nhân dân và được hội đồng nhân dân xem xét, quyết định.

+ Việc huy động, sử dụng các khoản đóng góp của nhân dân quy định tại khoản 1 Điều này phải được công khai để nhân dân giám sát và phải chịu sự thanh tra, kiểm tra, giám sát theo quy định của pháp luật.

+ Nội dung phải công khai bao gồm: mục đích huy động, mức đóng góp, việc sử dụng, kết quả sử dụng và báo cáo quyết toán.

+ Công trình cơ sở hạ tầng tại xã, phường, thị trấn sử dụng các khoản đóng góp của nhân dân phải công khai các nội dung: nội dung phải công khai quy định tại khoản 3 Điều này dự toán cho từng công trình theo kế hoạch đầu tư được duyệt; nguồn vốn đầu tư cho từng công trình; kết quả đã huy động của từng đối tượng cụ thể, thời gian huy động; kết quả lựa chọn nhà thầu đã được cấp có thẩm quyền phê duyệt; tiến độ thi công và kết quả nghiệm thu khối lượng, chất lượng công trình và quyết toán công trình. Vừa qua, Pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn có quy định về những nội dung công khai để nhân dân biết, bao gồm: việc quản lý và sử dụng các quỹ, khoản đầu tư, tài trợ theo chương tình hợp tác đối với cấp xã; các khoản huy động do nhân dân đóng góp.

+ Việc huy động, sử dụng các khoản đóng góp của nhân dân vì mục đích từ thiện, nhân đạo được thực hiện theo quy định tại khoản 2 và khoản 3 Điều này.

- Công khai, minh bạch việc quản lý, sử dụng các khoản hỗ trợ, viện trợ.

Việc quản lý, phân bổ, sử dụng nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) được thực hiện theo quy định tại Điều 17 của Luật phòng, chống tham nhũng năm 2005 được hiểu như sau: Các khoản viện trợ phi chính phủ phải được công khai cho các đối tượng thụ hưởng biết, việc quản lý, phân bố, sử dụng phải tuân thủ quy định tại Điều 15 của Luật. Thực tế việc quản lý các khoản viện trợ hiện nay còn chưa chặt chẽ, có nhiều sơ hở nên đã xảy ra tình trạng tham nhũng hoặc sử dụng lãng phí nguồn lực này, chúng ta cần phải có biện pháp khắc phục kịp thời.

- Công khai, minh bạch trong quản lý doanh nghiệp của nhà nước.

Hoạt động của doanh nghiệp cũng là một trong những nơi dễ xảy ra tình trạng lãng phí, tham nhũng. Chính vì vậy, Nhà nước chủ trương đẩy mạnh quá trình cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước kèm theo đó là đổi mới cơ chế quản lý đối với doanh nghiệp nhà nước để nâng cao hiệu quả hoạt động sản xuất, kinh doanh, đề cao tính tự chủ và nâng cao sức cạnh tranh của các doanh nghiệp này. Để thực hiện được việc đó, chúng ta phải tăng cường quản lý, ngăn chặn kịp thời tình trạng thất thoát tài sản và vốn của nhà nước.

Điều 18 của Luật quy định: Doanh nghiệp nhà nước có trách nhiệm công khai vốn và tài sản của Nhà nước đầu tư vào doanh nghiệp, vốn vay ưu đãi, báo cáo tài chính và kết quả kiểm toán, việc trích, lập và sử dụng quỹ của doanh nghiệp, việc tuyển dụng lao động, bổ nhiệm các chức danh lãnh đạo, quản lý của doanh nghiệp và các nội dung khác theo quy định của pháp luật. Những nội dung này phù hợp với Quy chế thực hiện dân chủ trong các doanh nghiệp nhà nước mà trên thực tế đã phát huy tác dụng tích cực trong việc nâng cao hiệu quả giám sát của người lao động đối với hoạt động của doanh nghiệp, không ít vụ việc tham nhũng lớn đã bị phanh phui từ sự phát hiện của quần chúng.

- Công khai, minh bạch trong cổ phần hoá doanh nghiệp của Nhà nước.

Cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước là một chủ trương hết sức đúng đắn của Đảng và Nhà nước ta, phù hợp với yêu cầu phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Tuy nhiên, trong quá trình cổ phần hoá, đã xuất hiện sự móc nối để vụ lợi dưới nhiều hình thức khác nhau và hậu quả là một số lượng đáng kể tài sản của Nhà nước bị chuyển đổi bất hợp pháp thành tài sản của một số người có chức vụ, quyền hạn. Để góp phần ngăn chặn tình trạng này, Điều 19 của Luật quy định:

+ Việc cổ phần hoá doanh nghiệp của Nhà nước phải công khai, minh bạch; không được cổ phần hoá khép kín trong nội bộ doanh nghiệp. Doanh nghiệp được cổ phần hoá có trách nhiệm công khai thực trạng tài chính khi xác định giá trị doanh nghiệp.

+Cơ quan nhà nước có thẩm quyền có trách nhiệm công khai giá trị doanh nghiệp được cổ phần hoá và việc điều chỉnh giá trị của doanh nghiệp (nếu có).

+ Việc bán cổ phần lần đầu của doanh nghiệp được cổ phần hoá phải thực hiện bằng phương thức bán đấu giá.

- Kiểm toán việc sử dụng ngân sách, tài sản của Nhà nước.

Trong xu thế chung của nền kinh tế phát triển thì hoạt động kiểm toán đóng vai trò là công cụ quan trọng để phòng ngừa, ngăn chặn tham nhũng trong quá trình sử dụng ngân sách nhà nước. Luật kiểm toán vừa được Quốc hội ban hành năm 2005 đã nâng cơ quan kiểm toán và hoạt động kiểm toán lên một vị thế xứng đáng, tạo điều kiện thuận lợi để kiểm toán nhà nước phát huy vai trò tích cực của mình, góp phần bảo vệ trật tự, kỷ cương trong việc sử dụng ngân sách nhà nước cũng như đấu tranh chống tham nhũng. Với ý nghĩa quan trọng như vậy, Điều 20 của Luật phòng, chống tham nhũng năm 2005 quy định:

+ Cơ quan, tổ chức, đơn vịcó trách nhiệm thực hiện kiểm toán và chịu sự kiểm toán việc sử dụng ngân sách, tài sản của Nhà nước theo quy định của pháp luật về kiểm toán.

+ Báo cáo kiểm toán phải được công khai theo quy định tại Điều 12 của Luật này.

- Công khai, minh bạch trong quản lý và sử dụng đất.

Quản lý và sử dụng đất trong thời gian qua là lĩnh vực được xã hội quan tâm. Đây vừa là lĩnh vực xảy ra nhiều tranh chấp, khiếu kiện vừa là môi trường thuận lợi cho những người có chức vụ, quyền hạn tham nhũng hoặc làm giàu bất chính. Nhà nước ta đã có nhiều cố gắng nhằm tăng cường quản lý đất đai, thể hiện qua việcLuật đất đai và các văn bản hướng dẫn thi hành thường xuyên được sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với điều kiện và tình hình mới. Tuy nhiên, tình trạng tham nhũng trong lĩnh vực đất đai vẫn được coi là một trong những lĩnh vực xảy ra nhiều tham nhũng với số lượng tài sản lớn nhất. Để góp phần ngăn chặn tình trạng này, Luật phòng, chống tham nhũng năm 2005 quy định công khai, minh bạch ở một số khâu dễ xảy ra tiêu cực trong quản lý đất đai và dễ nảy sinh tham nhũng. Điều 21 quy định như sau:

+ Việc lập quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất phải bảo đảm dân chủ và công khai.

+ Trong quá trình lập và điều chỉnh quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất chi tiết, cơ quan, tổ chức thực hiện việc lập quy hoạch, kế hoạch đó phải thông báo công khai chonhân dân địa phương nơi được quy hoạch, điều chỉnh biết.

+ Quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất chi tiết, việc giải phóng mặt bằng, giá đền bù khi thu hồi đất sau khi được cơ quan nhà nước có thẩm quyền quyết định, phê duyệt hoặc điều chỉnh phải được công khai.

Khoản 2, Điều 5, Pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn cũng quy định phải công khai: Dự án, công trình đầu tư và thứ tự ưu tiên, tiến độ thực hiện, phương án đền bù, hỗ trợ giải phóng mặt bằng, tái định cư liên quan đến dự án, công trình trên địa bàn cấp xã; quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất chi tiết và phương án điều chỉnh, quy hoạch khu dân cư trên địa bàn cấp xã.

+ Thẩm quyền, trình tự, thủ tục và việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất; quy hoạch chi tiết và việc phân lô đất ở, đối tượng được giao đất làm nhà ở phải được công khai.

- Công khai, minh bạch trong quản lý, sử dụng nhà ở.

Tham nhũng trong lĩnh vực này được thể hiện chủ yếu dưới dạng nhũng nhiễu đòi hối lộ khi cấp giấy phép xây dựng, giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà. Mặc dù số lượng tài sản bị chiếm đoạt trong từng vụ việc không lớn nhưng hiện tượng này lại có tính chất phổ biến và ảnh hưởng đến nhiều người dân, gây ra sự bất bình và làm ách tắc quá trình quản lý của Nhà nước. Loại hành vi tham nhũng thứ hai, tuy xuất hiện không nhiều nhưng tinh vi hơn, số lượng tài sản chiếm đoạt cũng lớn hơn, đó là việc mua nhà ở thuộc sở hữu nhà nước với giá thấp. Một số người có chức vụ, quyền hạn đã lợi dụng vị trí và quyền lực của mình để được mua những ngôi nhà, biệt thự có giá trị rất lớn với giá mang tính “tượng trưng”, thực chất là chiếm đoạt tài sản của Nhà nước. Đây là hai hành vi chủ yếu cần phải đấu tranh và Điều 22, Luật phòng, chống tham nhũng năm 2005 quy định về công khai, minh bạch nhằm đấu tranh với hai loại hành vi như sau:

+ Thẩm quyền, trình tự, thủ tục và việc cấp giấy phép xây dựng nhà ở và giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở phải được công khai.

+ Việc hoá giá nhà ở thuộc sở hữu nhà nước, đối tượng được hoá giá nhà ở và các khoản tiền phải nộp khi hoá giá nhà ở phải được công khai.

+ Việc bán nhà cho người tái định cư, người có thu nhập thấp và những đối tượng ưu tiên khác phải được công khai.

- Công khai, minh bạch trong lĩnh vực giáo dục.

Tham nhũng trong lĩnh vực giáo dục ở nước ta diễn ra ở tất cả các khâu: tuyển sinh (đầu vào), quá trình học, cấp văn bằng, chứng chỉ. Đồng thời, tham nhũng cũng xảy ra trong các hoạt động có tính chất quản lý nhà nước và sử dụng ngân sách nhà nước. Hiện nay, chúng ta đang đẩy mạnh xã hội hoá giáo dục, quá trình này đã nảy sinh nhiều hiện tượng tiêu cực tham nhũng, nhất là có sự móc nối giữa những người có chức trách quản lý và những kẻ mượn danh nghĩa giáo dục để thựchiện những hành vi vi phạm pháp luật, thu lợi bất chính. Điều 23, Luật phòng, chống tham nhũng năm 2005 quy định:

+ Việc tuyển sinh, thi, kiểm tra, cấp văn bằng, chứng chỉ phải được công khai.

+ Cơ quan quản lý giáo dục, cơ sở giáo dục có sử dụng ngân sách, tài sản của Nhà nước phải công khai việc quản lý, sử dụng ngân sách, tài sản của Nhà nước, việc thu, quản lý, sử dụng học phí, lệ phí tuyển sinh, các khoản thu từ hoạt động tư vấn, chuyển giao công nghệ, các khoản hỗ trợ, đầu tư cho giáo dục và các khoản thu khác theo quy định của pháp luật.

- Công khai, minh bạch trong lĩnh vực y tế.

Cũng như lĩnh vực giáo dục, y tế là lĩnh vực nhạy cảm, liên quan đến tuyệt đại bộ phận tầng lớp nhân dân. Tham nhũng, tiêu cực, đặc biệt là tình trạng nhũng nhiễu, vòi vĩnh của một bộ phận không nhỏ nhân viên y tế trong các bệnh viện nhà nước khi thực hiện chức trách, nhiệm vụ khám, chữa bệnh gây ra những phản ứng mạnh mẽ trong nhân dân. Những hành vi tiêu cực, ăn hối lộ của cán bộ ngành y tế khi thực hiện chức năng quản lý nhà nước, nhất là trong việc quản lý các cơ sở khám chữa bệnh, sản xuất và kinh doanh thuốc chữa bệnh, vệ sinh an toàn thực phẩm cũng diễn ra phổ biến. Điều 24, Luật phòng, chống tham nhũng năm 2005 quy định ngăn chặn tình trạng này như sau:

+ Thẩm quyền, trình tự, thủ tục và việc cấp, thu hồi chứng chỉ hành nghề y, dược tư nhân, giấy chứng nhận đủ điều kiện hành nghề cho các cơ sở hành nghề y, dược phải được công khai.

+ Cơ quan quản lý y tế, cơ sở khám, chữa bệnh có sử dụng ngân sách, tài sản của Nhà nước phải công khai việc thu, quản lý, sử dụng ngân sách, tài sản của Nhà nước, giá thuốc, việc thu, quản lý, sử dụng các loại phí liên quan đến việc khám, chữa bệnh và các khoản thu khác theo quy định của pháp luật.

- Công khai, minh bạch trong lĩnh vực khoa học - công nghệ.

Với mục tiêu đến năm 2020, nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại, Nhà nước đã quan tâm và dành khoản ngân sách lớn cho hoạt động nghiên cứu và phát triển tiềm lực khoa học - công nghệ. Tuy nhiên, việc sử dụng ngân sách trong lĩnh vực này hiện nay còn chưa hiệu quả, nhiều đề tài, công trình nghiên cứu còn xa rời thực tế, chưa có khả năng ứng dụng, quá trình tuyển chọn, phân bổ ngân sách nghiên cứu bị ảnh hưởng nặng nề bởi cơ chế “xin - cho”, thậm chí xảy ra tình trạng “chạy” kinh phí trong nghiên cứu khoa học. Chính vì vậy, việc công khai hoá mạnh mẽ lĩnh vực hoạt động này là biện pháp ngăn ngừa các hiện tượng tiêu cực, tham nhũng. Điều 25, Luật phòng, chống tham nhũng năm 2005 quy định một số khâu cần phải công khai, minh bạch, cụ thể như sau:

+ Việc xét, tuyển chọn, giao trực tiếp, tài trợ thực hiện nhiệm vụ khoa học - công nghệ và việc đánh giá, nghiệm thu kết quả thực hiện nhiệm vụ khoa học - công nghệ phải được tiến hành công khai.

+ Cơ quan quản lý khoa học - công nghệ, đơn vị nghiên cứu khoa học - công nghệ phải công khai việc quản lý, sử dụng ngân sách, tài sản của Nhà nước, các khoản hỗ trợ, viện trợ, đầu tư, các khoản thu từ hoạt động khoa học - công nghệ.

- Công khai, minh bạch trong lĩnh vực thể dục, thể thao.

Cùng với sự tăng trưởng về kinh tế và với điều kiện sống ngày càng được nâng cao thì các hoạt động thể dục, thể thao đã và đang diễn ra hết sức rầm rộ, sôi nổi. Đây cũng là lĩnh vực mà chúng ta chủ trương đẩy mạnh xã hội hoá. Ngoài các khoản ngân sách được hỗ trợ, các hoạt động này còn thu hút và huy động được rất nhiều kinh phí từ việc tài trợ và tổ chức thi đấu, biểu diễn. Vì vậy, Luật quy định phải bảo đảm tính công khai, minh bạch để tránh tiêu cực, tham nhũng như đã xảy ra trong thời gian vừa qua. Cụ thể là:

Cơ quan quản lý thể dục, thể thao, Uỷ ban Olympic Việt Nam, các liên đoàn thể thao, cơ sở thể dục, thể thao có trách nhiệm công khai việc quản lý, sử dụng ngân sách, tài sản của Nhà nước, các khoản thu từ hoạt động và dịch vụ thể dục, thể thao, khoản tài trợ, hỗ trợ, đóng góp của tổ chức, cá nhân trong nước và nước ngoài cho hoạt động thể dục, thể thao.

- Công khai, minh bạch trong hoạt động thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo, kiểm toán nhà nước.

Thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo, kiểm toán nhà nước là những hoạt động rất quan trọng trong việc đánh giá tình hình chấp hành chính sách, pháp luật của các cơ quan, tổ chức. Trong thời gian gần đây, kết luận của cơ quan thanh tra và cơ quan kiểm toán hầu hết đều chỉ ra sai phạm kinh tế và trách nhiệm của những cơ quan, tổ chức có liên quan. Nhiều vụ tham nhũng, tiêu cực được phát hiện qua công tác thanh tra, kiểm toán. Tuy nhiên, thực tế cũng cho thấy, kết luận thanh tra và kiểm toán luôn có những vấn đề mà dư luận thường thắc mắc, nhất là những thay đổi trong quá trình kết luận và xử lý kết quả thanh tra, kiểm toán. Điều này gây ra ảnh hưởng không nhỏ tới hiệu quả hoạt động của các cơ quan này. Điều 27, Luật phòng, chống tham nhũng năm 2005 quy định:

+ Hoạt động thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo, kiểm toán nhà nước phải được tiến hành công khai theo quy định của pháp luật.

+ Văn bản, quyết định sau đây phải được công khai, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác: kết luận thanh tra; quyết định giải quyết khiếu nại, quyết định giải quyết tố cáo; báo cáo kiểm toán.

- Công khai, minh bạch trong hoạt động giải quyết các công việc của cơ quan, tổ chức, đơn vị, cá nhân.

Quy định này chủ yếu hướng vào việc công khai hoá hoạt động hành chính, là một hoạt động quan hệ trực tiếp nhất, cụ thể nhất đến quyền và lợi ích của mọi người dân. Đây cũng là lĩnh vực thường xuyên xảy ra tình trạng vòi vĩnh, sách nhiễu, đòi hối lộ. Vi phạm phổ biến là lợi dụng sự không rõ ràng của pháp luật hoặc quy định của pháp luật tuy rõ ràng, cụ thể nhưng cơ quan có thẩm quyền hoặc cán bộ, công chức có thẩm quyền tìm cách gây khó khăn, phiền hà để buộc người dân và doanh nghiệp hối lộ. Luật phòng, chống tham nhũng năm 2005 quy định tính công khai, minh bạch, đề cao trách nhiệm của cơ quan nhà nước và cán bộ, công chức cũng như quyền của người dân và doanh nghiệp trong quá trình thực hiện các thủ tục hành chính, tạo điều kiện để công dân và doanh nghiệp đấu tranh với các biểu hiện quan liêu, hách dịch, cửa quyền, tạo cơ sở để cơ quan nhà nước có thẩm quyền xử lý những cơ quan, cá nhân có hành vi vi phạm. Điều 28 của Luật quy định:

+ Cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền quản lý trong lĩnh vực nhà, đất, xây dựng, đăng ký kinh doanh, xét duyệt dự án, cấp vốn ngân sách nhà nước, tín dụng, ngân hàng, xuất khẩu, nhập khẩu, xuất cảnh, nhập cảnh, quản lý hộ khẩu, thuế, hải quan, bảo hiểm và các cơ quan, tổ chức, cá nhân khác trực tiếp giải quyết công việc của cơ quan, tổ chức, đơn vị, cá nhân phải công khai thủ tục hành chính, giải quyết đúng thời hạn, đúng pháp luật và đúng yêu cầu hợp pháp của cơ quan, tổ chức, đơn vị, cá nhân.

+ Cơ quan, tổ chức, đơn vị, cá nhân có quyền đề nghị cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền giải quyết công việc của mình giải thích rõ những nội dung liên quan. Khi nhận được đề nghị của cơ quan, tổ chức, đơn vị, cá nhân thì cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền phải kịp thời giải thích công khai.

+ Trong trường hợp cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền giải thích chưa thoả đáng hoặc cố tình gây khó khăn, phiền hà thì cơ quan, tổ chức, đơn vị, cá nhân có quyền kiến nghị lên cơ quan, tổ chức cấp trên trực tiếp của cơ quan, tổ chức, các nhân đó.

- Công khai, minh bạch trong lĩnh vực tư pháp.

Hoạt động tư pháp là lĩnh vực được Đảng và Nhà nước ta quan tâm và có chủ trương tiến hành đổi mới mạnh mẽ. Đây là yêu cầu tất yếu của quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Tuy nhiên, chất lượng công tác tư pháp nói chung chưa ngang tầm với yêu cầu và đòi hỏi của nhân dân; còn có nhiều trường hợp bỏ lọt tội phạm, làm oan người vô tội, vi phạm quyền tự do, dân chủ của công dân, làm giảm sút lòng tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước và các cơ quan tư pháp[2]. Thực tiễn cho thấy, đã xảy ra không ít hành vi tham nhũng của những người có chức vụ, quyền hạn trong hoạt động tư pháp. Tham nhũng trong lĩnh vực tư pháp có thể chưa bị phát hiện nhiều nhưng để lại những hậu quả nguy hiểm đó là việc pháp luật bị xem thường. Biểu hiện là việc chạy án vẫn diễn ra khá phổ biến, kẻ phạm tội không bị xử lý bởi đã dùng tiền hối lộ và thoát tội, người dân mất lòng tin vào cơ quan tư pháp. Ngược lại, sự tắc trách của những người có trách nhiệm trong hoạt động tư pháp cũng có thể dẫn đến việc người dân vô tội bị kết án oan sai.

Luật phòng, chống tham nhũng năm 2005 đã nhấn mạnh trách nhiệm của các cơ quan và cá nhân có thẩm quyền trong việc công khai những nội dung hay hoạt động mà pháp luật đã quy định để bảo đảm sự giám sát của nhân dân cũng như của các cơ quan quyền lực nhà nước, góp phần phòng ngừa tham nhũng trong lĩnh vực này. Điều 29, Luật phòng, chống tham nhũng năm 2005 quy định: Việc thụ lý, điều tra, truy tố, kiểm sát, xét xử, thi hành án phải được công khai theo quy định của pháp luật về tố tụng và các quy định khác của pháp luật có liên quan.

- Công khai, minh bạch trong công tác tổ chức - cán bộ.

Công tác cán bộ là vấn đề hết sức quan trọng và nhạy cảm. Việc tuyển dụng người vào cơ quan, tổ chức cũng như việc bổ nhiệm, đề bạt cán bộ, công chức, viên chức luôn được Đảng và Nhà nước ta giám sát chặt chẽ và nghiêm túc để có một đội ngũ vừa hồng vừa chuyên, đáp ứng được yêu cầu của công việc, làm việc có trách nhiệm và thực sự là công bộc của dân. Tuy nhiên, thời gian qua, lĩnh vực này đã xảy ra không ít hiện tượng tiêu cực. Một trong những biện pháp hết sức cần thiết và có thể thực hiện ngay đó chính là việc công khai, minh bạch trong công tác tổ chức - cán bộ.

Điều 30, Luật phòng, chống tham nhũng quy định:

+ Việc tuyển dụng cán bộ, công chức, viên chức và người lao động khác vào cơ quan, tổ chức, đơn vị phải được công khai về số lượng, tiêu chuẩn, hình thức và kết quả tuyển dụng.

+ Việc quy hoạch, đào tạo, bổ nhiệm, chuyển ngạch,luân chuyển, điều động, khen thưởng, cho thôi việc, cho thôi giữ chức vụ, miễn nhiệm, bãi nhiệm, kỷ luật, hưu trí đối với cán bộ, công chức, viên chức và người lao động khác phải được công khai trong cơ quan, tổ chức, đơn vị nơi người đó làm việc.

-Công khai báo cáo hằng năm về phòng, chống tham nhũng.

Quy định về công khai báo cáo hằng năm về phòng, chống tham nhũng vừa thể hiện trách nhiệm của cơ quan quản lý trước Quốc hội, là cơ quan đại diện cho quyền lực của nhân dân, vừa tạo điều kiện cho nhân dân thực hiện quyền giám sát của mình, đồng thời cũng thể hiện trách nhiệm của một nước thành viên Công ước của Liên hợp quốc về chống tham nhũng. Việc công bố công khai báo cáo hằng năm về công tác phòng, chống tham nhũng cũng thể hiện thái độ và quyết tâm đấu tranh chống tham nhũng của Đảng, Nhà nước và nhân dân ta.

Điều 33, Luật phòng, chống tham nhũng năm 2005 quy định:

+ Hằng năm, Chính phủ có trách nhiệm báo cáo Quốc hội về công tác phòng, chống tham nhũng trong phạm vi cả nước; uỷ ban nhân dân có trách nhiệm báo cáo hội đồng nhân dân cùng cấp về công tác phòng, chống tham nhũng ở địa phương.

+ Báo cáo về công tác phòng, chống tham nhũng phải được công khai.

Theo quy định của Điều 15, Nghị định số 120 thì Báo cáo của Chính phủ với Quốc hội, Uỷ ban Thường vụ Quốc hội có các nội dung sau đây:

- Tình hình tham nhũng, kết quả công tác phòng, chống tham nhũng trong phạm vi cả nước;

- Đánh giá, dự báo tình hình tham nhũng và kiến nghị chính sách, giải pháp phòng, chống tham nhũng.

Báo cáo của địa phương bao gồm các nội dung sau đây:

- Các văn bản quy phạm pháp luật và các văn bản khác liên quan đến phòng, chống tham nhũng do địa phương ban hành theo thầm quyền;

- Tình hình tham nhũng, kết quả công tác phòng, chống tham nhũng của bộ, địa phương.

Về thời điểm công khai báo cáo hằng năm về công tác phòng, chống tham nhũng, Điều 24, Nghị định số 120 có quy định:

- Báo cáo hằng năm về công tác phòng, chống tham nhũng của ủy ban nhân dân được chủ tịch ủy ban nhân dân công khai chậm nhất vào ngày làm việc cuối cùng của tháng ba hằng năm.

- Báo cáo hằng năm về công tác phòng, chống tham nhũng của Chính phủ được Thủ tướng Chính phủ công khai chậm nhất vào ngày làm việc cuối cùng của tháng tư hằng năm.

Xác định công khai, minh bạch là nội dung quan trọng trong phòng ngừa tham nhũng, Chiến lược quốc gia phòng, chống tham nhũng đến năm 2020 nêu rõ việc tập trung vào công khai, minh bạch trong hoạch định chính sách, xây dựng và thực hiện pháp luật, gồm các giải pháp:

- Minh bạch hóa quá trình soạn thảo, trình, ban hành chính sách, pháp luật; quá trình chuẩn bị, trình, ban hành quyết định, văn bản hành chính gắn liền với việc cải cách thủ tục hành chính;

- Tổng rà soát, sửa đổi pháp luật về bí mật nhà nước theo hướng thu hẹp phạm vi bí mật nhà nước ở mức cần thiết;

- Cụ thể hóa và tăng cường kiểm tra nhằm bảo đảm thực hiện nghiêm các quy định của Luật phòng, chống tham nhũng về công khai, minh bạch trong hoạt động của cơ quan, tổ chức ở tất cả các ngành, các cấp và trong các lĩnh vực, nhất là trong việc thực hiện các chính sách an sinh xã hội;

- Công khai, minh bạch các quyết định trong hoạt động điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án;

- Xây dựng và thực hiện cơ chế bảo đảm quyền tiếp cận thông tin của công dân về hoạt động của cơ quan, tổ chức, đơn vị; hoàn thiện và tổ chức thực hiện nghiêm túc quy chế người phát ngôn của cơ quan nhà nước; xây dựng và ban hành luật về tiếp cận thông tin; có chế tài đối với người vi phạm quyền được thông tin của công dân;

- Hoàn thiện cơ chế thanh tra, kiểm tra, giám sát việc thực hiện công khai, minh bạch trong hoạch định chính sách, xây dựng và thực hiện pháp luật.

2. Xây dựng và thực hiện các chế độ, định mức, tiêu chuẩn

Chế độ, định mức, tiêu chuẩn trong các lĩnh vực quản lý luôn liên quan đến việc sử dụng tài sản, vốn và ngân sách nhà nước. Việc thực hiện một cách tuỳ tiện và trái phép các tiêu chuẩn, chế độ, định mức đó sẽ dẫn đến việc tài sản của Nhà nước bị thất thoát, tiền bạc hoặc những lợi ích vật chất rơi vào một số ít người, thực chất đó là sự hưởng lợi bất chính của những người có chức vụ, quyền hạn hoặc những người có quan hệ thân quen với người có chức vụ, quyền hạn. Đây chính là hành vi tham nhũng cần ngăn chặn.

Thông thường có hai loại tiêu chuẩn, chế độ, định mức bị vi phạm liên quan đến tham nhũng:

Một là, các chế độ, định mức, tiêu chuẩn về lợi ích, nhất là các chế độ đối với người có chức vụ lãnh đạo, quản lý. Chẳng hạn: chế độ phục vụ, chế độ dùng xe công, tiêu chuẩn dùng điện thoại...

Vi phạm trong việc thực hiện chế độ, định mức tiêu chuẩn này thường có hai dạng như sau:

+ Được hưởng hay sử dụng kinh phí hoặc loại tài sản vượt mức mà Nhà nước quy định;

+ Người không thuộc diện được hưởng nhưng đã được hưởng, tức là tự ý mở rộng đối tượng được hưởng một tiêu chuẩn thuộc về lợi ích vật chất nào đó. Ví dụ: Nhà nước quy định chỉ có cán bộ cấp vụ mới được trang bị điện thoại di động nhưng cơ quan nào đó đã mở rộng đối tượng đến cả các cấp thấp hơn như trưởng phòng, đội trưởng...

Hai là, các chế độ, định mức, tiêu chuẩn có tính chất chuyên môn - kỹ thuật. Đó là những quy định để bảo đảm chất lượng các công trình hoặc công việc nào đó, với những yêu cầu chính xác cao về kỹ thuật, về quy trình thực hiện, về thời gian, về nguyên vật liệu. Tự ý thay đổi, hạ thấp tiêu chuẩn này sẽ dẫn đến việc một số người được hưởng lợi, thực chất là tham nhũng, biểu hiện điển hình của loại vi phạm này chính là hiện tượng "rút ruột" công trình xây dựng, hạ thấp chi phí thực tế thông qua việc hạ thấp tiêu chuẩn kỹ thuật để chia nhau hưởng lợi. Đây là hành vi hết sức nguy hiểm bởi vì không những Nhà nước bị thiệt hại về tài sản mà hậu quả có thể hết sức nghiêm trọng, việc khắc phục là rất khó khăn, tốn kém.

Luật phòng, chống tham nhũng năm 2005 đã đưa ra các quy định nhằm bảo đảm cho việc ban hành, chấp hành quy định từ việc xây dựng, thực hiện cũng như chế độ, trách nhiệm trong trường hợp để xảy ra vi phạm.

Điều 34 quy định về những nguyên tắc trong việc xây dựng, ban hành và thực hiện các chế độ, định mức, tiêu chuẩn như sau:

- Cơ quan nhà nước trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có trách nhiệm:

+ Xây dựng, ban hành và công khai các chế độ, định mức, tiêu chuẩn;

+ Công khai các quy định về chế độ, định mức, tiêu chuẩn về quyền lợi đối với từng loại chức danh trong cơ quan mình;

+ Chấp hành nghiêm chỉnh các quy định về chế độ, định mức, tiêu chuẩn;

- Tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, đơn vị sự nghiệp và các cơ quan, tổ chức, đơn vị khác có sử dụng ngân sách nhà nước căn cứ vào quy định tại khoản 1 Điều này hướng dẫn áp dụng hoặc phối hợp với cơ quan nhà nước có thẩm quyền xây dựng, ban hành và công khai các chế độ, định mức, tiêu chuẩn áp dụng trong cơ quan, tổ chức, đơn vị mình;

- Nghiêm cấm cơ quan, tổ chức, đơn vị ban hành các chế độ, định mức, tiêu chuẩn trái pháp luật.

Như vậy, có thể hiểu quy định này được áp dụng cho mọi cơ quan, tổ chức, đơn vị có sử dụng ngân sách nhà nước. Điều 35 quy định về trách nhiệm kiểm tra và việc xử lý vi phạm quy định về chế độ, định mức, tiêu chuẩn, nhất là việc xác định trách nhiệm của những người có liên quan đến việc để xảy ra các sai phạm về chế độ, định mức, tiêu chuẩn:

- Cơ quan, tổ chức, đơn vị phải thường xuyên kiểm tra việc chấp hành và xử lý kịp thời hành vi vi phạm quy định về chế độ, định mức, tiêu chuẩn.

- Người có hành vi vi phạm quy định về chế độ, định mức, tiêu chuẩn phải bị xử lý theo quy định của pháp luật.

- Người cho phép sử dụng vượt chế độ, định mức, tiêu chuẩn phải bồi thường phần giá trị mà mình cho phép sử dụng vượt quá; Người sử dụng vượt chế độ, định mức, tiêu chuẩn có trách nhiệm liên đới bồi thường phần giá trị được sử dụng vượt quá.

- Người cho phép thực hiện chế độ, định mức, tiêu chuẩn chuyên môn - kỹ thuật thấp hơn mức quy định phải bồi thường phần giá trị mà mình cho phép sử dụng thấp hơn; Người hưởng lợi từ việc thực hiện chế độ, định mức, tiêu chuẩn chuyên môn - kỹ thuật thấp hơn có trách nhiệm liên đới bồi thường phần giá trị được hưởng lợi.

Về trách nhiệm nếu để xảy ra vi phạm chế độ, định mức, tiêu chuẩn: Cần phân biệt có hai loại trách nhiệm, một là trách nhiệm chung của người đã có hành vi vi phạm, hai là trách nhiệm vật chất đối với thiệt hại đã gây ra do việc thực hiện sai chế độ, định mức, tiêu chuẩn. Đối với loại thứ hai, có sự phân biệt trách nhiệm giữa người quyết định làm sai quy định và người được hưởng lợi từ việc thực hiện quy định sai trái đó theo nguyên tắc: Người quyết định việc thực hiện sai chế độ, định mức, tiêu chuẩn thì chịu trách nhiệm chính trong việc bồi thường, còn người được hưởng lợi từ việc thực hiện sai chế độ, định mức, tiêu chuẩn thì có trách nhiệm liên đới bồi thường

Nghị định số 120 còn có quy định về hành vi của một số người liên quan đến việc thực hiện sai chế độ, định mức, tiêu chuẩn để làm cơ sở phân định trách nhiệm của họ khi có vi phạm. Điều 50,Nghị định số 120 quy định:

- Người chỉ đạo, người cho phép, người đề xuất sử dụng vượt chế độ, định mức, tiêu chuẩn thì tuỳ theo mức độ trách nhiệm phải bồi thường phần giá trị được sử dụng vượt quá; người sử dụng vượt chế độ, định mức, tiêu chuẩn có trách nhiệm liên đới bồi thường phần giá trị được sử dụng vượt quá.

- Người chỉ đạo, người cho phép, người đề xuất thực hiện định mức, tiêu chuẩn kinh tế - kỹ thuật thấp hơn mức quy định vì vụ lợi thì tuỳ theo mức độ trách nhiệm phải bồi thường phần giá trị mà mình cho phép sử dụng thấp hơn; Người hưởng lợi từ việc thực hiện chế độ, định mức, tiêu chuẩn kinh tế - kỹ thuật thấp hơn có trách nhiệm liên đới bồi thường phần giá trị được hưởng lợi.

- Trong trường hợp hành vi vi phạm chế độ, định mức, tiêu chuẩn gây thiệt hại, thất thoát về tài sản hoặc bắt buộc phải áp dụng các biện pháp khắc phục hậu quả thì người có hành vi vi phạm theo quy định tại khoản 2 và 3 Điều này phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại hoặc chi phí khắc phục hậu quả.

Về nội dung xây dựng và thực hiện chế độ, định mức, tiêu chuẩn, Chiến lược quốc gia phòng, chống tham nhũng đến năm 2020 yêu cầu: Công bố công khai các chế độ, định mức, tiêu chuẩn và công khai việc thực hiện chế độ, định mức, tiêu chuẩn sử dụng tài sản công của cán bộ, công chức, trước hết là của người đứng đầu các cơ quan, tổ chức, đơn vị. Sửa đổi các quy định về quản lý, sử dụng nhà công vụ; xử lý nghiêm minh các vi phạm trong việc quản lý, sử dụng nhà công vụ.

3. Quy tắc ứng xử, quy tắc đạo đức nghề nghiệp, việc chuyển đổi vị trí công tác của cán bộ, công chức, viên chức

Các nước trên thế giới mặc dù có chế độ chính trị khác nhau nhưng về cơ bản, việc thực hiện quyền lực công đều phải thông qua hoạt động công vụ của đội ngũ công chức. Vì vậy, để chống tham nhũng, không có cách gì tốt hơn là tăng cường kiểm soát việc thực hiện quyền lực nhà nước, cụ thể là tác động vào đội ngũ cán bộ, công chức và quá trình thực hiện công vụ. Ngoài ra, trong chừng mực nào đó, cần kiểm soát cả những quan hệ xã hội của họ, những quan hệ có nguy cơ bị lợi dụng và nảy sinh tham nhũng. Trên một quan niệm chung như vậy, Luật phòng, chống tham nhũng năm 2005 đã đưa ra nhiều giải pháp liên quan đến cán bộ, công chức như sau:

a) Quy tắc ứng xử của cán bộ, công chức, viên chức

Quy tắc ứng xử của cán bộ, công chức đã được nhiều nước quy định, nhưng vẫn là một khái niệm khá mới ở nước ta. Quy tắc ứng xử bao gồm những điều thuộc về nghĩa vụ của cán bộ, công chức và những quy tắc khác mà người cán bộ, công chức phải thực hiện trong khi thi hành công vụ, nhiệm vụ và ngay cả trong cuộc sống hằng ngày. Quy tắc ứng xử vừa biểu hiện mối quan hệ giữa công chức với nhà nước, vừa thể hiện mối quan hệ giữa cán bộ, công chức với xã hội.

Điều 36, Luật phòng, chống tham nhũng năm 2005 quy định về quy tắc ứng xử của cán bộ, công chức, viên chức như sau:

- Quy tắc ứng xử là các chuẩn mực xử sự của cán bộ, công chức, viên chức trong thi hành nhiệm vụ, công vụ và trong quan hệ xã hội, bao gồm những việc phải làm hoặc không được làm, phù hợp với đặc thù công việc của từng nhóm cán bộ, công chức, viên chức và từng lĩnh vực hoạt động công vụ, nhằm bảo đảm sự liêm chính và trách nhiệm của cán bộ, công chức, viên chức.

- Quy tắc ứng xử của cán bộ, công chức, viên chức được công khai để nhân dân giám sát việc chấp hành.

Nội dung quy tắc ứng xử của cán bộ, công chức, viên chức bao gồm:

Thứ nhất, những điều cán bộ, công chức không được làm (thường gọi là những điều cấm):

Đây là nội dung đã được quy định trong Pháp lệnh chống tham nhũng năm 1998. Những điều cấm tập trung vào việc ngăn ngừa các hành vi có thể dẫn đến tham nhũng trong quá trình thi hành chức trách, nhiệm vụ của cán bộ, công chức, viên chức. Luật phòng, chống tham nhũng năm 2005 có kế thừa các quy định của Pháp lệnh chống tham nhũng năm 1998; đồng thời, bổ sung những nội dung cần thiết để đáp ứng với yêu cầu đấu tranh chống những biểu hiện mới của tệ tham nhũng.

- Cán bộ, công chức, viên chức không được làm những việc sau đây:

+ Cửa quyền, hách dịch, gây khó khăn, phiền hà đối với cơ quan, tổ chức, đơn vị, cá nhân trong khi giải quyết công việc;

+ Thành lập, tham gia thành lập hoặc tham gia quản lý, điều hành doanh nghiệp tư nhân, công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần, công ty hợp danh, hợp tác xã, bệnh viện tư, trường học tư và tổ chức nghiên cứu khoa học tư, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác;

+ Làm tư vấn cho doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân khác ở trong nước và nước ngoài về các công việc có liên quan đến bí mật nhà nước, bí mật công tác, những công việc thuộc thẩm quyền giải quyết của mình hoặc mình tham gia giải quyết;

+ Kinh doanh trong lĩnh vực mà trước đây mình có trách nhiệm quản lý sau khi thôi giữ chức vụ trong một thời hạn nhất định theo quy định của Chính phủ;

+ Sử dụng trái phép thông tin, tài liệu của cơ quan, tổ chức, đơn vị vì vụ lợi.

- Người đứng đầu, cấp phó của người đứng đầu cơ quan, vợ hoặc chồng của những người đó không được góp vốn vào doanh nghiệp hoạt động trong phạm vi ngành, nghề mà người đó trực tiếp thực hiện việc quản lý nhà nước.

 - Người đứng đầu, cấp phó của người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị không được bố trí vợ hoặc chồng, bố, mẹ, con, anh, chị, em ruột của mình giữ chức vụ quản lý về tổ chức nhân sự, kế toán - tài vụ, làm thủ quỹ, thủ kho trong cơ quan, tổ chức, đơn vị hoặc giao dịch, mua bán vật tư, hàng hoá, ký kết hợp đồng cho cơ quan, tổ chức, đơn vị đó.

 - Người đứng đầu, cấp phó của người đứng đầu cơ quan không được để vợ hoặc chồng, bố, mẹ, con kinh doanh trong phạm vi do mình quản lý trực tiếp.

- Cán bộ, công chức, viên chức là thành viên hội đồng quản trị, tổng giám đốc, phó tổng giám đốc, giám đốc, phó giám đốc, kế toán trưởng và những cán bộ quản lý khác trong doanh nghiệp của Nhà nước không được ký kết hợp đồng với doanh nghiệp thuộc sở hữu của vợ hoặc chồng, bố, mẹ, con, anh, chị, em ruột; cho phép doanh nghiệp thuộc sở hữu của vợ hoặc chồng, bố, mẹ, con, anh, chị, em ruột tham dự các gói thầu của doanh nghiệp mình; bố trí vợ hoặc chồng, bố, mẹ, con, anh, chị, em ruột giữ chức vụ quản lý về tổ chức nhân sự, kế toán - tài vụ, làm thủ quỹ, thủ kho trong doanh nghiệp hoặc giao dịch, mua bán vật tư, hàng hoá, ký kết hợp đồng cho doanh nghiệp.

Những quy định trên đây cũng được áp dụng đối với các đối tượng sau: sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp, công nhân quốc phòng trong cơ quan, đơn vị thuộc Quân đội nhân dân; sĩ quan, hạ sĩ quan nghiệp vụ, sĩ quan, hạ sĩ quan chuyên môn - kỹ thuật trong cơ quan, đơn vị thuộc Công an nhân dân.

Thứ hai, nghĩa vụ báo cáo và xử lý báo cáo về dấu hiệu tham nhũng xảy ra trong cơ quan, tổ chức, đơn vị

Thực tế cho thấy, đa số các vụ việc tham nhũng trong thời gian gần đây đều được phát hiện "từ bên ngoài". Trong khi đó, những thông tin hay biểu hiện tham nhũng trong cơ quan, đơn vị thì không được phát giác kịp thời. Có nhiều nguyên nhân khác nhau nhưng một trong số đó là biểu hiện né tránh, nể nang, thậm chí là thiếu trách nhiệm, vi phạm pháp luật.

 Xung đột lợi ích có thể xuất hiện trong quá trình thực hiện khi một cán bộ, công chức, viên chức phát hiện thấy hành vi tham nhũng của đồng nghiệp, thậm chí của cấp trên. Nếu báo cáo với người có thẩm quyền thì có thể gây mất đoàn kết nội bộ hoặc cơ quan, đơn vị mình mất thành tích thi đua. Tuy nhiên, pháp luật đòi hỏi người cán bộ, công chức, viên chức phải lựa chọn lợi ích cao hơn đó là lợi ích của Nhà nước, của toàn xã hội và trong mọi trường hợp đều phải bảo đảm nguyên tắc “mọi hành vi tham nhũng đều phải được phát hiện, ngăn chặn và xử lý kịp thời, nghiêm minh”. (Điều 4, Luật phòng, chống tham nhũng năm 2005). Sự xung đột lợi ích này cũng xảy ra đối với người nhận được báo cáo về dấu hiệu tham nhũng xảy ra trong cơ quan, tổ chức, đơn vị mình và việc giải quyết đúng pháp luật báo cáo đó chính là ứng xử một cách đúng đắn, là trách nhiệm của người cán bộ, công chức, viên chức.

Điều 38, Luật phòng, chống tham nhũng năm 2005 quy định nghĩa vụ báo cáo và xử lý báo cáo về dấu hiệu tham nhũng như sau:

- Khi phát hiện có dấu hiệu tham nhũng trong cơ quan, tổ chức, đơn vị nơi mình làm việc thì cán bộ, công chức, viên chức phải báo cáo ngay với người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị đó; trường hợp người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị có liên quan đến dấu hiệu tham nhũng đó thì báo cáo với người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị cấp trên trực tiếp.

- Chậm nhất là mười ngày, kể từ ngày nhận được báo cáo về dấu hiệu tham nhũng, người được báo cáo phải xử lý vụ việc theo thẩm quyền hoặc chuyển cho cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền xem xét xử lý và thông báo cho người báo cáo; đối với vụ việc phức tạp thì thời hạn trên có thể kéo dài nhưng không quá ba mươi ngày; trường hợp cần thiết thì quyết định hoặc đề nghị người có thẩm quyền quyết định áp dụng các biện pháp nhằm ngăn chặn, khắc phục hậu quả của hành vi tham nhũng và bảo vệ người báo cáo.

Bên cạnh nghĩa vụ báo cáo và xử lý báo cáo về dấu hiệu tham nhũng của cán bộ, công thức, viên chức, Luật cũng quy định trách nhiệm của cán bộ, công chức, viên chức biết được hành vi tham nhũng mà không báo cáo và người nhận được báo cáo về hành vi, dấu hiệu tham nhũng mà không xử lý thì phải chịu trách nhiệm theo quy định của pháp luật.

Thứ ba, quy định về tặng quà và nhận quà tặng của cán bộ, công chức, viên chức

Việc tặng quà và nhận quà tặng vốn là một phong tục, tập quán bình thường của người Á Đông nói chung và của người Việt Nam nói riêng, thể hiện tình cảm hay sự biết ơn trong các quan hệ xã hội. Tuy nhiên, phong tục này hiện nay đang có xu hướng bị lợi dụng để thực hiện hành vi đưa và nhận hối lộ. Để phòng ngừa tham nhũng thông qua thực hiện hành vi tặng quà và nhận quà tặng, Luật phòng, chống tham nhũng năm 2005 chỉ đưa ra các quy định có tính nguyên tắc và giao cho Chính phủ quy định chi tiết việc tặng quà, nhận quà tặng và nộp lại quà tặng của cán bộ, công chức, viên chức.

Điều 40, Luật phòng, chống tham nhũng quy định năm 2005 về việc tặng quà và nhận quà tặng của cán bộ, công chức, viên chức như sau:

- Cơ quan, tổ chức, đơn vị không được sử dụng ngân sách, tài sản của Nhà nước làm quà tặng, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác;

- Cán bộ, công chức, viên chức không được nhận tiền, tài sản hoặc lợi ích vật chất khác của cơ quan, tổ chức, đơn vị, cá nhân liên quan đến công việc do mình giải quyết hoặc thuộc phạm vi quản lý của mình;

- Nghiêm cấm lợi dụng việc tặng quà, nhận quà tặng để hối lộ hoặc thực hiện các hành vi khác vì vụ lợi.

Ngày 10-5-2007, Thủ tướng Chính phủ ra Quyết định số 64/2007/QĐ-TTg ban hành qui chế về việc tặng quà, nhận quà và nộp lại quà tặng của cơ quan, tổ chức, đơn vị có sử dụng ngân sách nhà nước và của cán bộ, công chức, viên chức trong đó có những quy định cụ thể như sau:

Quà tặng bao gồm:

 - Tiền Việt Nam, tiền nước ngoài, sổ tiết kiệm, cổ phiếu, trái phiếu, séc và các giấy tờ có giá.

- Hiện vật, hàng hóa, tài sản.

- Dịch vụ thăm quan, du lịch, y tế, giáo dục - đào tạo, thực tập, bồi dưỡng trong nước hoặc ngoài nước và các loại dịch vụ khác.

- Quyền được mua tài sản, nhà, quyền sử dụng đất, quyền sử dụng thiết bị; các ưu đãi ngoài quy định của Nhà nước; việc sử dụng tài sản, nhà, đất đai, thiết bị của người khác mà không trả hoặc trả không đầy đủ chi phí cho việc sử dụng.

Một số hành vi bị nghiêm cấm trong việc nhận quà bao gồm:

- Cơ quan, đơn vị và cá nhân tặng quà có liên quan đến hoạt động công vụ do mình hoặc người mà mình nhận thay chịu trách nhiệm giải quyết (trước, trong và sau khi thực hiện công vụ) hoặc thuộc phạm vi quản lý.

- Quà tặng của các cơ quan, đơn vị và cá nhân mà việc tặng quà đó không rõ mục đích.

- Việc tặng quà có mục đích liên quan đến các hành vi tham nhũng

Về việc nhận quà, Quy chế quy định:

- Các cơ quan, đơn vị chỉ được nhận quà tặng theo đúng quy định của pháp luật. Quà tặng phải được công khai, quản lý và sử dụng theo đúng các quy định tại Quy chế này.

- Đối với quà tặng không đúng chế độ, tiêu chuẩn, đối tượng thì đại diện cơ quan, đơn vị phải từ chối và giải thích rõ lý do với người tặng quà. Trong trường hợp không thể từ chối được, cơ quan, đơn vị phải tổ chức quản lý, xử lý quà tặng theo quy định.

- Cán bộ, công chức, viên chức chỉ được nhận quà tặng theo đúng quy định của pháp luật và phải ký xác nhận; phải kê khai thu nhập trong trường hợp pháp luật có yêu cầu.

- Đối với quà tặng không đúng chế độ, tiêu chuẩn, đối tượng thì cán bộ, công chức, viên chức phải từ chối và giải thích rõ lý do với người tặng quà. Trong trường hợp không thể từ chối được, cán bộ, công chức, viên chức phải báo cáo thủ trưởng cơ quan, đơn vị mình để xử lý theo quy định.

- Đối với quà tặng từ họ hàng, người thân trong gia đình mà những người đó không có mối quan hệ về lợi ích liên quan đến hoạt động công vụ của người được tặng quà và quà tặng từ những cơ quan, đơn vị, cá nhân không liên quan đến hoạt động công vụ của người được tặng quà thì cán bộ, công chức, viên chức được tặng quà không phải báo cáo với cơ quan, đơn vị; trong trường hợp pháp luật có yêu cầu kê khai thu nhập thì cán bộ, công chức, viên chức phải thực hiện kê khai theo đúng quy định.

Việc báo cáo và nộp lại quà tặng được thực hiện như sau:

- Cơ quan, đơn vị khi nhận được quà tặng không đúng quy định thì phải giao lại quà tặng cho bộ phận chịu trách nhiệm quản lý quà tặng của cơ quan, đơn vị đó để xử lý theo quy định.

- Cán bộ, công chức, viên chức khi nhận được quà tặng không đúng quy định thì phải báo cáo thủ trưởng trực tiếp và nộp lại quà tặng cho cơ quan, đơn vị mình trong thời hạn 5 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được quà tặng.

Trường hợp báo cáo và nộp lại quà tặng chậm so với thời hạn nêu trên thì người nhận quà tặng phải giải trình rõ lý do.

- Báo cáo phải được thể hiện bằng văn bản và có đầy đủ các nội dung sau:

+ Loại và giá trị của quà tặng.

+ Thời gian, địa điểm và hoàn cảnh cụ thể khi nhận quà tặng.

+ Tên, chức vụ, cơ quan, địa chỉ của người tặng quà.

+ Mục đích của việc tặng quà (nếu biết).

 Ngoài trường hợp quy định tại Điều 11, Quy chế này, cán bộ, công chức khi ốm đau, tai nạn hoặc nhân dịp hiếu, hỷ, lễ, tết truyền thống được tặng quà có trị giá dưới 500.000 đồng Việt Nam mà việc tặng quà đó không liên quan đến các mục đích, hành vi quy định tại Quy chế thì người được tặng quà tự quyết định mà không phải báo cáo và phải chịu trách nhiệm về quyết định của mình.

Quy chế cũng quy định rõ về trình tự xử lý quà tặng như sau:

Khi quà tặng được nộp lại cho cơ quan, đơn vị, thủ trưởng cơ quan, đơn vị đó phải tổ chức tiếp nhận, bảo quản và phải xử lý ngay số quà tặng:

Với quà tặng bằng tiền, sổ tiết kiệm, cổ phiếu, trái phiếu, séc và các giấy tờ có giá thì làm thủ tục nộp ngay vào ngân sách nhà nước theo quy định của Bộ Tài chính.

Với quà tặng bằng hiện vật:

+ Xác định giá trị của quà tặng trên cơ sở giá của quà tặng do cơ quan, đơn vị, cá nhân tặng quà cung cấp (nếu có) hoặc giá trị của quà tặng tương tự được bán trên thị trường trong nước hoặc quốc tế mà cơ quan quản lý người được tặng quà có thể so sánh và xác định giá trị. Trong trường hợp không xác định được giá trị của quà tặng bằng hiện vật thì có thể đề nghị cơ quan có chức năng thẩm định xác định.

+ Tuỳ theo số lượng hiện vật được nộp lại, thủ trưởng cơ quan, đơn vị quyết định việc tổ chức bán hiện vật công khai 3 tháng hoặc 6 tháng một lần.

+ Đối với quà tặng quy định tại khoản 3 Điều 3 Quy chế này và quà tặng là động vật, thực vật, thực phẩm tươi, sống và hiện vật khác khó bảo quản thì Thủ trưởng cơ quan, đơn vị căn cứ tình hình cụ thể để quyết định xử lý cụ thể cho phù hợp; nếu vượt quá thẩm quyền thì báo cáo cơ quan cấp trên trực tiếp để xem xét, quyết định xử lý.

+ Số tiền thu được (sau khi trừ đi chi phí liên quan đến việc xử lý hiện vật) các cơ quan, đơn vị nộp vào ngân sách nhà nước trong thời gian không quá 30 ngày, kể từ ngày bán hiện vật.

- Cơ quan, đơn vị phải lập báo cáo về việc thu, nộp, xử lý quà tặng theo định kỳ hằng quý, hằng năm gửi cơ quan cấp trên trực tiếp và công khai trong cơ quan, đơn vị mình. Cơ quan, đơn vị xử lý quà tặng có trách nhiệm thông báo bằng văn bản tới cơ quan, đơn vị tặng quà hoặc cơ quan, đơn vị quản lý người tặng quà để xem xét việc tặng quà và xử lý theo quy định của pháp luật.

Để các cơ quan có cơ sở quy định quy tắc ứng xử của từng loại cán bộ, công chức, viên chức phù hợp với tính chất của hoạt động công vụ và các quy tắc ứng xử với những tình huống thường xảy ra trong các quan hệ công vụ và quan hệ xã hội trong lĩnh vực mà cán bộ, công chức, viên chức đó đảm nhận và thực hiện (chẳng hạn: thẩm phán, kiểm sát viên, công chức hải quan, thuế...), Điều 41, Luật phòng, chống tham nhũng năm 2005 quy định:

- Bộ trưởng, thủ trưởng cơ quan ngang bộ, thủ trưởng cơ quan thuộc Chính phủ, Chủ nhiệm Văn phòng Quốc hội, Chủ nhiệm Văn phòng Chủ tịch nước ban hành quy tắc ứng xử của cán bộ, công chức, viên chức làm việc trong cơ quan, ngành, lĩnh vực do mình quản lý.

- Chánh án Toà án nhân dân tối cao, viện trưởng viện kiểm sát nhân dân tối cao ban hành quy tắc ứng xử của thẩm phán, hội thẩm, thư ký toà án, kiểm sát viên và cán bộ, công chức, viên chức khác trong toà án, viện Kiểm sát.

- Bộ trưởng Bộ Nội vụ ban hành quy tắc ứng xử của cán bộ, công chức, viên chức làm việc trong bộ máy chính quyền địa phương; phối hợp với cơ quan trung ương của các tổ chức chính trị - xã hội ban hành quy tắc ứng xử của cán bộ, công chức trong tổ chức này.

Thực hiện quy định tại khoản 3 Điều này, ngày 26-2-2007, Bộ trưởng Bộ Nội vụ đã ra Quyết định số 03/2007/QĐ-BNV về việc ban hành Quy tắc ứng xử của cán bộ, công chức, viên chức làm việc trong bộ máy chính quyền địa phương, trong đó quy định các chuẩn mực xử sự của cán bộ, công chức, viên chức khi thi hành nhiệm vụ, công vụ và trong quan hệ xã hội, bao gồm những việc phải làm hoặc không được làm nhằm bảo đảm sự liêm chính và trách nhiệm của cán bộ, công chức, viên chức. Đồng thời, Bộ Nội vụ đã phối hợp với Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam, Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Hội Nông dân Việt Nam, Hội Cựu chiến binh Việt Nam và Hội Liên hiệp Việt Nam xây dựng quy tắc ứng xử của cán bộ, công chức trong các tổ chức này.

b) Quy tắc đạo đức nghề nghiệp

Để góp phần phòng ngừa tham nhũng, Luật phòng, chống tham nhũng năm 2005 quy định việc xây dựng quy tắc đạo đức nghề nghiệp đối với một số nghề đặc thù, hoạt động có tính chất độc lập như luật sư, kiểm toán viên. Mặc dù đây không phải là những người thuộc đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức làm việc trong cơ quan nhà nước nhưng cũng cần có những quy định về chuẩn mực đạo đức trong quá trình hành nghề cho phù hợp, nhằm hướng tới một nền văn hoá phi tham nhũng trong toàn xã hội, cả trong khu vực công lẫn khu vực tư.

Điều 42, Luật phòng, chống tham nhũng năm 2005 quy định về vấn đề đạo đức nghề nghiệp như sau:

- Quy tắc đạo đức nghề nghiệp là chuẩn mực xử sự phù hợp với đặc thù của từng nghề bảo đảm sự liêm chính, trung thực và trách nhiệm trong việc hành nghề.

- Tổ chức xã hội - nghề nghiệp phối hợp với cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành quy tắc đạo đức nghề nghiệp đối với hội viên của mình theo quy định của pháp luật.

Chiến lược quốc gia phòng, chống tham nhũng đến năm 2020 đặt ra yêu cầu: Đẩy mạnh việc xây dựng, công bố công khai các quy tắc ứng xử, đạo đức công vụ, đạo đức nghề nghiệp của cán bộ, công chức và tăng cường giám sát việc thực hiện theo quy định của pháp luật.

c) Vấn đề chuyển đổi vị trí công tác của cán bộ, công chức, viên chức

Việc chuyển đổi vị trí công tác được coi là một giải pháp quan trọng nhằm ngăn ngừa hiện tượng cấu kết, móc nối hình thành “êkíp”, “đường dây” tiêu cực, tham nhũng. Điều 43 quy định một số nguyên tắc chung về chuyển đổi vị trí công tác của cán bộ, công chức, viên chức. Để đảm bảo sự ổn định của quản lý và tính chất chuyên sâu của công việc, việc chuyển đổi chỉ là chuyển đổi về vị trí, mang tính chất địa lý, cơ học chứ không phải chuyển đổi về nội dung, tính chất công việc; đồng thời việc chuyển đổi chỉ thực hiện đối với một số vị trí quản lý tiền, tài sản của Nhà nước hoặc trực tiếp tiếp xúc, giải quyết công việc của cơ quan, tổ chức, cá nhân. Đây là một biện pháp mới trong công tác phòng, chống tham nhũng được nhiều nước áp dụng có hiệu quả.

Khoản 1, Điều 43, Luật phòng, chống tham nhũng năm 2005 quy định: Cơ quan, tổ chức, đơn vị, theo thẩm quyền quản lý có trách nhiệm thực hiện việc định kỳ chuyển đổi cán bộ, công chức, viên chức làm việc tại một số vị trí liên quan đến việc quản lý ngân sách, tài sản của Nhà nước, trực tiếp tiếp xúc và giải quyết công việc của cơ quan tổ chức, đơn vị, cá nhân nhằm chủ động phòng ngừa tham nhũng.

Cần lưu ý, việc chuyển đổi vị trí công tác và luân chuyên cán bộ có sự khác biệt. Luân chuyên cán bộ là chính sách của Đảng trong công tác cán bộ nhằm đào tạo, rèn luyện đội ngũ cán bộ lãnh đạo để họ có điều kiện nâng cao trình độ hiểu biết và đủ năng lực thực tiễn đáp ứng được yêu cầu của người lãnh đạo, quản lý. Chuyển đổi vị trí công tác là để tránh việc cán bộ, công chức, viên chức do làm lâu ở một vị trí sẽ tìm ra được kẽ hở hay những khiếm khuyết của cơ chế chính sách để tìm cách lợi dụng tham nhũng. Hoặc do làm lâu ở một vị trí nên tìm cách móc nối với những người có liên quan để thực hiện những hành vi tham nhũng tinh vi, khó phát hiện và ngăn chặn. Chẳng hạn, giữa những người cùng tổ thu thuế, giữa người thu thuế và người nộp thuế thoả thuận bớt xén số thuế lẽ ra phải nộp... Ngoài ra, việc chuyển đổi vị trí công tác phải dựa trên những nguyên tắc nhất định chứ không thể chuyển đổi một cách tuỳ tiện. Việc chuyển đổi vị trí công việc không làm thay đổi tính chất công việc mà cán bộ, công chức, viên chức đó đang thực hiện và phải phù hợp với chuyên môn, trình độ nghiệp vụ của người được chuyển đổi. Chẳng hạn, một nhân viên thu thuế nông nghiệp có thể chuyển sang thu thuế công thương nghiệp; một nhân viên có trách nhiệm theo dõi thu thuế của địa bàn A có thể chuyển sang theo dõi địa bàn B; một cảnh sát khu vực này có thể sang làm cảnh sát khu vực khác... tại khoản 2, Điều 43, Luật phòng, chống tham nhũng năm 2005 có quy định:Việc chuyển đổi vị trí công tác… chỉ áp dụng đối với cán bộ, công chức, viên chức không giữ chức vụ quản lý. Việc luân chuyển cán bộ, công chức giữ chức vụ quản lý thực hiện theo quy định về luân chuyển cán bộ.

Cụ thể hoá quy định trên đây, ngày 27-10-2007, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 158/2007/NĐ-CP quy định danh mục các vị trí công tác và thời hạn định kỳchuyển đổi vị trí công tác đối với cán bộ, công chức, viên chức (Sau đây gọi tắt là Nghị định số 158). Điều 8, Nghị định số 158 quy định phải định kỳ chuyển đổi 21 vị trí công tác trong các lĩnh vực gồm:

- Hoạt động quản lý tài chính, ngân sách, tài sản của Nhà nước;

- Quản lý xuất khẩu, nhập khẩu hàng hóa;

- Hoạt động hải quan, thuế, kho bạc, dự trữ quốc gia; quản lý và thực hiện nghiệp vụ kế toán, kiểm toán;

- Quản lý công tác cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước; quản lý chứng khoán, thị trường chứng khoán;

- Hoạt động thẩm định, định giá trong đấu giá, hoạt động mua và bán nợ;

- Cấp phép hoạt động ngân hàng, hoạt động ngoại hối; thanh tra, giám sát hoạt động ngân hàng; quản lý và thực hiện nghiệp vụ tín dụng tại các tổ chức tín dụng nhà nước; thẩm định và cho vay tín dụng;

- Quản lý việc bán, khoán, cho thuê đất, tài sản trên đất và cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà;

- Hoạt động quản lý, điều hành công tác kế hoạch và đầu tư trong các cơ quan nhà nước và trong các doanh nghiệp nhà nước;

- Quản lý hoạt động đối ngoại, lãnh sự;

- Hoạt động quản lý và cấp phát các loại: giấy đăng ký, đăng ký kết hôn có yếu tố nước ngoài, giấy chứng nhận, giấy phép, cấp phiếu lý lịch tư pháp; công chứng viên, chấp hành viên thi hành án dân sự;

- Quản lý xây dựng cơ bản, giải tỏa, áp giá đền bù trong giải phóng mặt bằng và quản lý dự án;

- Quản lý, cấp phát các loại văn bằng, chứng chỉ;

- Quản lý, cấp phát đăng ký các loại phương tiện, bằng lái xe;

- Quản lý, đăng kiểm các loại phương tiện vận tải;

- Hoạt động quản lý thị trường, kiểm lâm;

- Các hoạt động thanh tra;

- Cán bộ, công chức, viên chức làm công tác phòng, chống tham nhũng trong các cơ quan, tổ chức và đơn vị quy định tại khoản 1, Điều 2 Nghị định này;

- Cảnh sát giao thông; cảnh sát tư pháp; cảnh sát quản lý trại giam; cảnh sát hộ khẩu; cảnh sát điều tra; cảnh sát kinh tế; cảnh sát khu vực; cảnh sát trật tự hành chính; cảnh sát đăng ký, quản lý vũ khí, ngành nghề kinh doanh có điều kiện và con dấu; cảnh sát đăng ký và quản lý hộ khẩu; cảnh sát hướng dẫn và kiểm tra an toàn phòng cháy và chữa cháy; cảnh sát làm công tác hậu cần; an ninh kinh tế, an ninh điều tra, quản lý xuất cảnh, nhập cảnh và cán bộ làm công tác trinh sát trong các cơ quan điều tra thuộc lực lượng Công an nhân dân;

- Cán bộ, nhân viên làm công tác hậu cần, kỹ thuật, đầu tư, kinh tế trong Quân đội nhân dân;

- Công tác kiểm sát các hoạt động tư pháp; hoạt động công tố của viện kiểm sát nhân dân, viện kiểm sát quân sự các cấp; hoạt động xét xử của tòa án nhân dân, tòa án quân sự các cấp;

- Công tác tuyển dụng, đào tạo, thi tuyển, thi nâng ngạch công chức, viên chức; công tác nhân sự và quản lý nhân lực.

4. Vấn đề minh bạch tài sản, thu nhập của cán bộ, công chức

Với việc ban hành Pháp lệnh chống tham nhũng năm 1998, Việt Nam đã thực hiện việc kê khai tài sản - một nội dung của cơ chế minh bạch tài sản. Tuy nhiên, cho đến nay, hệ thống minh bạch tài sản ở Việt Nam vẫn chỉ dừng lại ở kê khai tài sản đơn thuần, còn thiếu nhiều yếu tố để Nhà nước có thể kiểm soát chặt chẽ tài sản, thu nhập của cán bộ, công chức. Luật phòng, chống tham nhũng đã quy định những nội dung cơ bản nhất của một hệ thống minh bạch tài sản, bao gồm những vấn đề chính như sau:

- Cán bộ, công chức phải kê khai tài sản hàng năm để tránh che giấu, tẩu tán tài sản tham nhũng; ngoài việc kê khai tài sản của bản thân, cán bộ, công chức còn phải kê khai tài sản của vợ hoặc chồng và con chưa thành niên. Đối tượng tài sản phải kê khai được mở rộng hơn so với Pháp lệnh chống tham nhũng năm 1998.

- Việc xác minh tài sản được tiến hành trong một số trường hợp nhất định. Đây là một điểm mới so với Pháp lệnh chống tham nhũng năm 1998. Khi xem xét đề bạt, bổ nhiệm, bầu cử hoặc có hành vi tham nhũng thì thủ trưởng cơ quan tổ chức việc xác minh tài sản để xem cán bộ, công chức có kê khai trung thực hay không.

- Bản kết luận về sự minh bạch trong kê khai tài sản được công khai trong một số trường hợp nhất định theo yêu cầu và trên cơ sở quyết định của cơ quan, tổ chức có thẩm quyền.

- Người có nghĩa vụ kê khai tài sản sẽ phải chịu trách nhiệm kỷ luật nếu kê khai không trung thực, nếu là người ứng cử thì sẽ bị loại khỏi danh sách bầu cử, người được dự kiến bổ nhiệm, phê chuẩn thì sẽ không được bổ nhiệm, phê chuẩn vào chức vụ dự kiến.

So với Pháp lệnh chống tham nhũng năm 1998, Luật phòng, chống tham nhũng năm 2005 đưa ra một số nội dung mới:

Một là, không chỉ kê khai tài sản của cá nhân cán bộ, công chức mà kê khai tài sản của cả vợ và con chưa thành niên để ngăn chặn việc phân tán tài sản tham nhũng, tránh sự phát hiện của cơ quan nhà nước có thẩm quyền.

Hai làLuật phòng, chống tham nhũng năm 2005 quy định việc xác minh tài sản trong những trường hợp nhất định khi có quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền.

Ba là, Luật phòng, chống tham nhũng năm 2005 quy định về việc công khai kết luận về tính minh bạch trong kê khai tài sản.

Với tinh thần đó, việc minh bạch tài sản, thu nhập của cán bộ, công chức đã khác với trước kia chỉ quy định về kê khai tài sản thu nhập của cán bộ, công chức, nay mục tiêu là tiến tới minh bạch tài sản cán bộ, công chức. Luật phòng, chống tham nhũng năm 2005 không đặt vấn đề công khai bản kê khai tài sản mà chỉ quy định công khai kết luận về tính minh bạch, trung thực của việc kê khai sau khi đã tiến hành xác minh theo các hình thức và ở những địa điểm thích hợp.

a) Về đối tượng có nghĩa vụ phải kê khai:

Theo quy định tại Điều 44 của Luật phòng, chống tham nhũng năm 2005, không phải mọi cán bộ, công chức đều phải có nghĩa vụ kê khai tài sản, mà chỉ cán bộ có chức vụ từ phó trưởng phòng của cấp huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh trở lên hoặc tương đương trong các cơ quan, tổ chức, đơn vị và cán bộ, công chức làm tại một số vị trí nhất định (sẽ do Chính phủ quy định). Cụ thể, những người sau đây phải kê khai tài sản:

- Cán bộ từ phó trưởng phòng của uỷ ban nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh trở lên và tương đương trong các cơ quan, tổ chức, đơn vị;

- Một số cán bộ, công chức tại xã, phường, thị trấn; người làm công tác quản lý ngân sách, tài sản của Nhà nước hoặc trực tiếp tiếp xúc và giải quyết công việc của cơ quan, tổ chức, đơn vị, cá nhân;

- Người ứng cử đại biểu Quốc hội, đại biểu hội đồng nhân dân.

Để cụ thể hoá quy định này, tại Điều 6 Nghị định số số 37/2007/NĐ-CP ngày 09-3-2007 của Chính phủ về minh bạch tài sản, thu nhập đã quy định cụ thể người có nghĩa vụ kê khai tài sản, thu nhập bao gồm:

- Đại biểu Quốc hội chuyên trách, đại biểu hội đồng nhân dân chuyên trách, người ứng cử đại biểu Quốc hội, đại biểu hội đồng nhân dân.

- Cán bộ, công chức từ phó trưởng phòng của ủy ban nhân dân cấp huyện trở lên và người được hưởng phụ cấp chức vụ tương đương phó trưởng phòng của ủy ban nhân dân cấp huyện trở lên trong cơ quan, tổ chức, đơn vị.

- Sĩ quan giữ cương vị chỉ huy từ cấp phó tiểu đoàn trưởng, phó chỉ huy, trưởng ban chỉ huy quân sự cấp huyện trở lên trong Quân đội nhân dân; sĩ quan giữ cương vị chỉ huy từ cấp phó tiểu đoàn trưởng, phó trưởng công an phường, thị trấn, phó đội trưởng trở lên trong Công an nhân dân.

- Giám đốc, phó giám đốc, viện trưởng, phó viện trưởng, kế toán trưởng, trưởng phòng, phó trưởng phòng, trưởng khoa, phó trưởng khoa, bác sĩ chính tại các bệnh viện, viện nghiên cứu của Nhà nước.

- Tổng biên tập, phó tổng biên tập, kế toán trưởng, trưởng phòng, phó trưởng phòng, trưởng ban, phó trưởng ban báo, tạp chí có sử dụng ngân sách, tài sản của Nhà nước.

- Hiệu trưởng, phó hiệu trưởng, kế toán trưởng trường mầm non, tiểu học của Nhà nước tại quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh; hiệu trưởng, phó hiệu trưởng, kế toán trưởng trường trung học cơ sở, trung học phổ thông, trường trung cấp chuyên nghiệp, dạy nghề, trung tâm giáo dục thường xuyên của Nhà nước; hiệu trưởng, phó hiệu trưởng, kế toán trưởng, trưởng phòng, phó trưởng phòng, trưởng khoa, phó trưởng khoa, giảng viên chính trường đại học, cao đẳng của Nhà nước.

 - Giám đốc, phó giám đốc, kế toán trưởng, trưởng phòng, phó trưởng phòng, trưởng ban, phó trưởng ban tại ban quản lý dự án đầu tư xây dựng có sử dụng ngân sách, tài sản của Nhà nước; giám đốc, phó giám đốc, kế toán trưởng ban quản lý dự án sử dụng vốn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA).

- Tổng giám đốc, phó tổng giám đốc, giám đốc, phó giám đốc, chủ tịch hội đồng quản trị, phó chủ tịch hội đồng quản trị, thành viên hội đồng quản trị, trưởng ban kiểm soát, phó trưởng ban kiểm soát, thành viên ban kiểm soát, kế toán trưởng, trưởng phòng, phó trưởng phòng, trưởng ban, phó trưởng ban các phòng, ban nghiệp vụ trong công ty nhà nước; người được Nhà nước cử giữ chức vụ kể trên trong doanh nghiệp có vốn đầu tư của Nhà nước.

- Bí thư, phó bí thư đảng ủy; chủ tịch, phó chủ tịch hội đồng nhân dân; chủ tịch, phó chủ tịch, uỷ viên ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn; trưởng công an, chỉ huy trưởng quân sự xã; cán bộ địa chính - xây dựng, tài chính - kế toán của ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn.

- Điều tra viên, kiểm sát viên, thẩm phán, thư ký toà án, kiểm toán viên nhà nước, thanh tra viên, chấp hành viên, công chứng viên nhà nước.

- Bộ trưởng Bộ Nội vụ, sau khi thống nhất với bộ trưởng, thủ trưởng cơ quan ngang Bộ, Thủ trưởng cơ quan thuộc Chính phủ, Chủ nhiệm Văn phòng Quốc hội, Chủ nhiệm Văn phòng Chủ tịch nước, Chánh Văn phòng Trung ương Đảng, trưởng các ban của Trung ương Đảng, người đứng đầu cơ quan trung ương của tổ chức chính trị - xã hội, trình Thủ tướng Chính phủ ban hành danh sách đối với người có nghĩa vụ phải kê khai tài sản, thu nhập là: người làm công tác quản lý ngân sách, tài sản của Nhà nước hoặc trực tiếp tiếp xúc và giải quyết công việc của cơ quan, tổ chức, đơn vị, cá nhân trong cơ quan hành chính nhà nước các cấp, cơ quan của Đảng, tổ chức chính trị - xã hội, văn phòng Quốc hội, Văn phòng hội đồng nhân dân, Văn phòng Chủ tịch nước.

Ngày 03-07-2008, Thủ tướng Chính phủ đã ký Quyết định 85/2008/QĐ-TTg ban hành danh mục người có nghĩa vụ kê khai tài sản, thu nhập hiện đang làm việc trong các cơ quan hành chính nhà nước, lực lượng vũ trang.

Thông tư số 2442/2007/TT-TTCP ngày 13-11-2007 của Thanh tra Chính phủ hướng dẫn thi hành một số điều của Nghị định số 37/2007/NĐ-CP (sau đây gọi tắt là Thông tư số 2442/2007/TT-TTCP) đã cụ thể hóa thêm một bước nữa về vấn đề này, bổ sung thêm nhóm đối tượng thứ hai là các cơ quan, tổ chức, cá nhân trực tiếp hoặc gián tiếp liên quan đến hoạt động minh bạch tài sản, thu nhập, bao gồm: cơ quan, tổ chức, đơn vị nơi người có nghĩa vụ kê khai công tác; cơ quan, tổ chức có thẩm quyền yêu cầu xác minh; cơ quan, tổ chức, đơn vị có thẩm quyền ra quyết định xác minh; cơ quan, tổ chức, đơn vị tiến hành xác minh và cơ quan, tổ chức, đơn vị, cá nhân có liên quan.

Ngày 22-1-2010, Thanh tra Chính phủ đã ban hành Thông tư 01/2010/TT-TTCP sửa đổi, bổ sung một số quy định tại Thông tư số 2442 (sau đây gọi tắt là Thông tư số 01/2010/TT-TTCP). Theo đó, những đối tượng sau đây có nghĩa vụ phải kê khai:

- Người có nghĩa vụ kê khai tại khoản 2, Điều 6, Nghị định số 37/2007/NĐ-CP là những người có chức vụ từ phó trưởng phòng ủy ban nhân dân cấp huyện và tương đương trở lên, bao gồm:

+ Cán bộ, công chức, viên chức trong các cơ quan và đơn vị sự nghiệp công lập của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội ở Trung ương, cấp tỉnh và cấp huyện; trong các cơ quan, đơn vị thuộc Quân đội nhân dân không phải là hạ sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp, công nhân quốc phòng; trong cơ quan, đơn vị thuộc Công an nhân dân không phải là sĩ quan, hạ sĩ quan chuyên nghiệp;

+ Những người được Đảng, Nhà nước điều động, phân công và những người được tuyển dụng, bổ nhiệm theo chỉ tiêu biên chế được giao làm việc trong tổ chức chính trị xã hội - nghề nghiệp, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp.

- Người có nghĩa vụ kê khai tại khoản 8, Điều 6, Nghị định số 37/2007/NĐ-CP: đối với tập đoàn kinh tế, tổng công ty, công ty nhà nước, công ty cổ phần có vốn góp của nhà nước thì đối tượng có nghĩa vụ kê khai tài sản, thu nhập đáp ứng đủ hai điều kiện sau:

+ Giữ một trong các chức danh tổng giám đốc, phó tổng giám đốc, giám đốc, phó giám đốc, chủ tịch hội đồng quản trị, phó chủ tịch hội đồng quản trị, thành viên hội đồng quản trị, trưởng ban kiểm soát, phó trưởng ban kiểm soát, thành viên ban kiểm soát, kế toán trưởng, trưởng ban, phó trưởng ban, trưởng phòng, phó trưởng phòng trong tập đoàn kinh tế, tổng công ty, công ty nhà nước, công ty cổ phần có vốn góp của nhà nước;

+ Các chức danh trên do cơ quan nhà nước có thẩm quyền cử giữ, bổ nhiệm; hoặc do hội đồng cổ đông, hội đồng quản trị của công ty cổ phần bầu, bổ nhiệm và là người đại diện phần vốn góp của nhà nước tại công ty đó.

b) Quyền và nghĩa vụ của người kê khai tài sản

Theo quy định của pháp luật, người có nghĩa vụ kê khai tài sản phải kê khai tài sản, mọi biến động về tài sản thuộc sở hữu của mình và tài sản thuộc sở hữu của vợ hoặc chồng và con chưa thành niên. Người có nghĩa vụ kê khai tài sản phải kê khai trung thực và chịu trách nhiệm về việc kê khai. Khi kê khai, người có nghĩa vụ kê khai phải ghi rõ những thay đổi về tài sản so với lần kê khai trước.

Cụ thể hoá nội dung về quyền và nghĩa vụ của người kê khai tài sản, Điều 7 Nghị định số 37/2007/NĐ-CP ngày 09-3-2007 của Chính phủ (sau đây gọi tắt là Nghị định số 37/2007/NĐ-CP) quy định:

- Người có nghĩa vụ kê khai tài sản, thu nhập có các quyền sau:

+ Được bảo đảm bí mật nội dung của bản kê khai tài sản, thu nhập theo quy định của pháp luật;

+ Khiếu nại, tố cáo hành vi vi phạm pháp luật của cơ quan, tổ chức, cá nhân trong việc thực hiện các quy định về minh bạch tài sản, thu nhập tại Luật phòng, chống tham nhũng và Nghị định số 37/2007/NĐ-CP;

+ Được khôi phục danh dự, uy tín, được bồi thường thiệt hại do hành vi vi phạm các quy định về minh bạch tài sản, thu nhập gây ra.

- Người có nghĩa vụ kê khai tài sản, thu nhập có các nghĩa vụ sau:

+ Kê khai trung thực, đầy đủ, đúng thời hạn về số lượng tài sản, thu nhập phải kê khai và những thay đổi so với lần kê khai gần nhất trước đó;

+ Giải trình trung thực, đầy đủ, kịp thời về các nội dung liên quan đến việc kê khai tài sản, thu nhập khi có yêu cầu của cơ quan, tổ chức, đơn vị có thẩm quyền;

+ Thực hiện đầy đủ các yêu cầu của cơ quan, tổ chức, đơn vị có thẩm quyền phục vụ cho việc xác minh tài sản, thu nhập.

 Người có nghĩa vụ kê khai tài sản, thu nhập là thành viên của tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội thì ngoài việc thực hiện các quyền, nghĩa vụ được quy định nói trên còn phải thực hiện các nghĩa vụ về kê khai tài sản, thu nhập do tổ chức đó quy định.

Tại mục IV, Phần 1 Thông tư số 2442/2007/TT-TTCP quy định: người có nghĩa vụ kê khai theo quy định tại khoản 1, Điều 44, Luật phòng, chống tham nhũng và Điều 6Nghị định số 37/2007/NĐ-CP phải thực hiện việc kê khai hằng năm và kê khai phục vụ việc bổ nhiệm. Người có nghĩa vụ kê khai phải tự kê khai và tự chịu trách nhiệm về nội dung và sự trung thực của việc kê khai.

 Việc kê khai hằng năm được tiến hành theo trình tự sau:

Để đảm bảo công tác kê khai đúng quy định và thời hạn, tháng 11 hằng năm, căn cứ quy định tại Điều 9 và Điều 10, Nghị định số 37/2007/NĐ-CP, đơn vị phụ trách công tác tổ chức, cán bộ của cơ quan, tổ chức, đơn vị lập danh sách người có nghĩa vụ kê khai trình người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị phê duyệt.

Việc phê duyệt hoàn thành chậm nhất là ngày 30 tháng 11 hằng năm.

Sau khi danh sách người có nghĩa vụ kê khai được phê duyệt, đơn vị phụ trách công tác tổ chức, cán bộ phát mẫu bản kê khai và hướng dẫn kê khai:

- Nếu kê khai lần đầu thì người kê khai phải ký, ghi rõ họ tên, ngày, tháng, năm kê khai vào bản kê khai và không phải điền các thông tin tại phần chỉ tiêu tăng, giảm tài sản, thu nhập (phần thông tin về biến động tài sản) theo Mẫu số 01 ban hành kèm theo Nghị định số 37/2007/NĐ-CP.

- Nếu kê khai bổ sung thì kê khai theo Mẫu số 01A ban hành kèm theo Thông tư số 01/2010/TT-TTCP thay cho Mẫu số 01 ban hành kèm theo Thông tư số2442/2007/TT-TTCP (Mẫu số 01A là Mẫu số 01 ban hành kèm theo Thông tư số 2442/2007/TT-TTCP được sửa đổi, bổ sung thêm ô đánh dấu biến động tăng, biến động giảm; bỏ ô có biến động tài sản, thu nhập phải kê khai).

Người có nghĩa vụ kê khai thực hiện việc kê khai và nộp bản kê khai cho đơn vị phụ trách công tác tổ chức, cán bộ trong thời hạn mười ngày, kể từ ngày nhận được Mẫu bản kê khai.

Trong thời hạn năm ngày, kể từ ngày nhận được bản kê khai, đơn vị phụ trách công tác tổ chức, cán bộ phải kiểm tra lại bản kê khai; nếu thấy việc kê khai chưa đúng mẫu quy định thì yêu cầu kê khai lại; thời hạn kê khai lại là năm ngày, kể từ ngày nhận được yêu cầu.

Khi tiếp nhận bản kê khai, người tiếp nhận phải làm Giấy giao nhận theo Mẫu ban hành kèm theo Nghị định số 37/2007/NĐ-CP và ký nhận.

Việc kê khai và nộp bản kê khai có thể chậm hơn các thời hạn nói trên nếu người có nghĩa vụ kê khai có lý do chính đáng (ốm, đi công tác vắng,..).

 Việc lưu giữ bản kê khai thực hiện như sau:

- Nếu người kê khai không thuộc diện cấp ủy quản lý theo quy định về phân cấp quản lý cán bộ thì bản kê khai được lưu cùng hồ sơ cán bộ của người đó tại đơn vị phụ trách công tác tổ chức, cán bộ; người kê khai có trách nhiệm lưu giữ bản sao bản kê khai của mình.

- Nếu người kê khai thuộc diện cấp ủy quản lý theo quy định về phân cấp quản lý cán bộ thì đơn vị phụ trách công tác tổ chức, cán bộ sao y 02 bản; nộp bản gốc cho ban tổ chức cấp ủy cùng cấp; lưu 01 bản sao tại đơn vị mình; gửi 01 bản sao cho ủy ban kiểm tra cấp ủy cùng cấp có thẩm quyền quản lý cán bộ (để phục vụ công tác giám sát và xác minh theo quy định).

Đối với bản kê khai của người kê khai thuộc diện cấp ủy quản lý mà trước đây đã sao y 3 bản (gửi 1 bản cho ủy ban kiểm tra cấp ủy cùng cấp có thẩm quyền quản lý cán bộ; gửi 1 bản cho cơ quan thanh tra nhà nước cùng cấp; lưu 1 bản tại đơn vị phụ trách công tác tổ chức, cán bộ) thì cơ quan, đơn vị này thực hiện quản lý bản kê khai theo quy định về quản lý hồ sơ cán bộ.

Tất cả các hoạt động trên phải hoàn thành chậm nhất vào ngày 31 tháng 12 của năm kê khai.

Việc kê khai phục vụ công tác bổ nhiệm được thực hiện theo trình tự dưới đây:

- Khi có kế hoạch, dự kiến bổ nhiệm thì người có thẩm quyền bổ nhiệm yêu cầu người dự kiến được bổ nhiệm thực hiện việc kê khai.

Nếu người dự kiến được bổ nhiệm chưa kê khai lần đầu thì phát Mẫu ban hành kèm theo Nghị định số 37/2007/NĐ-CP; nếu đã kê khai lần đầu thì phát Mẫu số 1 ban hành kèm theo Thông tư số 2442/2007/TT-TTCP.

- Thời hạn kê khai, nộp bản kê khai do người có thẩm quyền bổ nhiệm ấn định để bảo đảm việc bổ nhiệm được thực hiện theo đúng quy trình, nhưng phải hoàn thành trước thời điểm lấy phiếu tín nhiệm và đảm bảo đủ thời gian 10 ngày cho người kê khai thực hiện việc kê khai.

c) Về tài sản phải kê khai

So với quy định trước kia thì vấn đề tài sản phải kê khai được quy định đầy đủ hơn, bao gồm:

- Nhà, quyền sử dụng đất;

- Kim khí quý, đá quý, tiền, giấy tờ có giá trị và các loại tài sản khác mà giá trị của mỗi loại từ năm mươi triệu đồng trở lên;

- Tài sản, tài khoản ở nước ngoài;

- Thu nhập phải chịu thuế theo quy định của pháp luật.

Điều 8, Nghị định số 37/2007/NĐ-CP đã cụ thể hoá tài sản phải kê khai bao gồm:

 - Các loại nhà, công trình xây dựng sau:

 + Nhà, công trình xây dựng khác đang thuê hoặc đang sử dụng thuộc sở hữu của Nhà nước;

+ Nhà, công trình xây dựng khác thuộc sở hữu của bản thân, vợ hoặc chồng và con chưa thành niên đã được cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu;

+ Nhà, công trình xây dựng khác thuộc sở hữu của bản thân, vợ hoặc chồng và con chưa thành niên nhưng chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu hoặc giấy chứng nhận quyền sở hữu đứng tên người khác.

- Các quyền sử dụng đất sau:

+ Quyền sử dụng đất của bản thân, vợ hoặc chồng và con chưa thành niên đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng;

+ Quyền sử dụng đất của bản thân, vợ hoặc chồng và con chưa thành niên nhưng chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng hoặc giấy chứng nhận quyền sử dụng đứng tên người khác.

- Tài sản, tài khoản ở nước ngoài của bản thân, vợ hoặc chồng và con chưa thành niên.

- Thu nhập từ mức phải chịu thuế thu nhập cá nhân trở lên theo quy định của pháp luật.

- Kim khí quý, đá quý, tiền, sổ tiết kiệm, cổ phiếu, trái phiếu, séc, các công cụ chuyển nhượng khác, mô tô, ôtô, tàu, thuyền và các loại tài sản khác mà giá trị của mỗi loại từ năm mươi triệu đồng trở lên.

Thủ tục kê khai tài sản được thực hiện tương tự như trước: Việc kê khai tài sản được thực hiện hằng năm tại cơ quan, tổ chức, đơn vị nơi người có nghĩa vụ kê khai làm việc và được hoàn thành chậm nhất vào ngày 31 tháng 12.

Bản kê khai tài sản được nộp cho cơ quan, tổ chức, đơn vị có thẩm quyền quản lý người có nghĩa vụ kê khai tài sản.

d) Về xác minh tài sản thu nhập và xử lý vi phạm

Xác minh tài sản là một quy định mới của Luật phòng, chống tham nhũng năm 2005 so với Pháp lệnh chống tham nhũng năm 1998. Mục đích của việc xác minh tài sản là để đánh giá về tính trung thực của việc kê khai, góp phần đánh giá cán bộ, công chức hoặc người tham gia ứng cử vào các cơ quan quyền lực để bảo đảm bộ máy nhà nước có một đội ngũ cán bộ trung thực, liêm chính, không tham nhũng. Tuy nhiên, quyền sở hữu về tài sản là một trong những quyền cơ bản của công dân cần được tôn trọng và bảo vệ. Vì vậy, Luật phòng, chống tham nhũng năm 2005 quy định vấn đề này rất chặt chẽ, việc xác minh chỉ được tiến hành trong trường hợp có đủ hai điều kiện:

- Phải có quyết định của cơ quan, tổ chức có thẩm quyền quản lý người có nghĩa vụ kê khai tài sản.

- Chỉ được thực hiện trong các trường hợp Luật định.

Cụ thể, Điều 47, Luật phòng, chống tham nhũng năm 2005 quy định như sau:

- Việc xác minh tài sản chỉ được thực hiện khi có quyết định của cơ quan, tổ chức có thẩm quyền quản lý người có nghĩa vụ kê khai tài sản.

- Việc xác minh tài sản được thực hiện trong các trường hợp sau đây:

+ Phục vụ cho việc bầu cử, bổ nhiệm, cách chức, miễn nhiệm, bãi nhiệm hoặc kỷ luật đối với người có nghĩa vụ kê khai tài sản khi xét thấy cần thiết;

+ Theo yêu cầu của hội đồng bầu cử hoặc cơ quan, tổ chức có thẩm quyền;

+ Có hành vi tham nhũng

Trên thực tế, việc xác minh tài sản là vấn đề cực kỳ phức tạp vì liên quan đến việc phân cấp quản lý cán bộ, công chức, trong đó có vai trò của các cơ quan Đảng bởi vì nhiều cán bộ, công chức là đảng viên thuộc diện cấp uỷ quản lý. Thông tư số 2442/2007/TT-TTCP đã chia thành các nhóm đối tượng khác nhau, nội dung, trình tự xác minh cũng như việc công khai kết luận xác minh và việc xử lý đối với những người kê khai không trung thực.

Qua xác minh, nếu người bị kết luận là không trung thực trong kê khai tài sản, thu nhập thì tuỳ theo tính chất, mức độ bị xử lý bằng một trong các hình thức kỷ luật sau:

- Khiển trách;

- Cảnh cáo;

- Hạ bậc lương;

- Hạ ngạch.

Đối với người kê khai tài sản, thu nhập không trung thực là người ứng cử đại biểu Quốc hội, đại biểu hội đồng nhân dân, người dự kiến được bầu, phê chuẩn tại Quốc hội, hội đồng nhân dân, đại hội của tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, người dự kiến được phê chuẩn, bổ nhiệm thì bị xử lý như sau:

- Người ứng cử đại biểu Quốc hội, đại biểu hội đồng nhân dân mà bị kết luận là kê khai tài sản, thu nhập không trung thực thì bị xoá tên khỏi danh sách người ứng cử trong thời hạn một nhiệm kỳ.

- Người dự kiến được bầu, phê chuẩn tại Quốc hội, hội đồng nhân dân, đại hội của tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, người dự kiến được phê chuẩn, bổ nhiệm mà bị kết luận là kê khai tài sản, thu nhập không trung thực thì không được bầu, phê chuẩn, bổ nhiệm trong thời hạn một năm, kể từ ngày bị kết luận là kê khai không trung thực.

- Người ứng cử đại biểu Quốc hội, đại biểu hội đồng nhân dân, người dự kiến được bầu, phê chuẩn, bổ nhiệm bị kết luận là kê khai tài sản, thu nhập không trung thực mà người đó là cán bộ, công chức, viên chức, sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp trong các cơ quan, đơn vị thuộc Quân đội nhân dân; sĩ quan trong các cơ quan, đơn vị thuộc Công an nhân dân ngoài việc bị xử lý theo quy định trên thì còn bị xử lý kỷ luật.

Tiếp tục thực hiện việc minh bạch tài sản, thu nhập của cán bộ, công chức, Chiến lược quốc gia phòng, chống tham nhũng đến năm 2020 yêu cầu: sửa đổi, bổ sung các quy định về minh bạch tài sản, thu nhập theo hướng từng bước công khai và quy định trách nhiệm giải trình nguồn gốc tài sản, thu nhập; thực hiện việc chi trả qua tài khoản đối với tất cả các khoản chi từ ngân sách nhà nước cho cán bộ, công chức; Tăng cường thanh tra, kiểm tra việc thực hiện các quy định của pháp luật về công vụ, công chức, nhất là việc minh bạch tài sản, thu nhập, việc thực thi công vụ ở những vị trí trực tiếp giải quyết yêu cầu của công dân, tổ chức, doanh nghiệp.

5. Chế độ trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị khi để xảy ra tham nhũng

Đề cao trách nhiệm người đứng đầu là một yếu tố quan trọng trong quản lý nhà nước và chống tham nhũng nói riêng. Luật phòng, chống tham nhũng quy định một cách chi tiết về vấn đề này, bao gồm những nội dung chính sau:

- Phân định trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan, tổ chức với cấp phó được giao phụ trách các lĩnh vực; theo đó, người đứng đầu chịu trách nhiệm chung và chịu trách nhiệm trực tiếp đối với lĩnh vực do mình quản lý, cấp phó chịu trách nhiệm trực tiếp đối với lĩnh vực được giao phụ trách.

- Phân cấp trách nhiệm rõ ràng cho người đứng đầu đơn vị, phải chịu trách nhiệm trực tiếp khi để xảy ra hành vi tham nhũng trong đơn vị mình.

Để tạo cơ sở xử lý trách nhiệm người đứng đầu, trong kết luận thanh tra, kiểm toán, điều tra phải có kết luận về trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị nơi xảy ra tham nhũng là yếu kém trong quản lý, buông lỏng quản lý hay bao che cho hành vi tham nhũng.

Luật phòng, chống tham nhũng năm 2005 đã khẳng định lại nguyên tắc: Người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị phải chịu trách nhiệm về việc để xảy ra hành vi tham nhũng trong cơ quan, tổ chức, đơn vị do mình quản lý, phụ trách. Trên cơ sở nguyên tắc chung như trên, Luật cũng quy định tuỳ từng trường hợp cụ thể mà xác định mức độ trách nhiệm khác nhau của người đứng đầu và cấp phó của người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị, có trường hợp họ phải chịu trách nhiệm trực tiếp, có trường hợp thì liên đới chịu trách nhiệm.

Ở mọi cơ quan, tổ chức đều có sự phân công trách nhiệm lãnh đạo, chỉ đạo điều hành giữa người đứng đầu và các cấp phó của họ, theo đó, cấp phó có thể được giao phụ trách từng mảng công việc hay lĩnh vực công tác nhất định hoặc trực tiếp phụ trách một hoặc một số đơn vị trong cơ quan tổ chức. Trong trường hợp này, người được phân công phụ trách phải chịu trách nhiệm trực tiếp về việc để xảy ra hành vi tham nhũng trong đơn vị mà họ phụ trách, còn người đứng đầu thì vẫn phải chịu trách nhiệm liên đới. Khoản 2, Điều 54, Luật phòng, chống tham nhũng năm 2005 quy định cấp phó của người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị phải chịu trách nhiệm trực tiếp về việc để xảy ra hành vi tham nhũng trong lĩnh vực công tác và trong đơn vị do mình trực tiếp phụ trách. Người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị phải chịu trách nhiệm liên đới về việc để xảy ra hành vi tham nhũng trong lĩnh vực công tác và trong đơn vị do cấp phó của mình trực tiếp phụ trách. Người đứng đầu đơn vị trực thuộc cơ quan, tổ chức phải chịu trách nhiệm trực tiếp về việc để xảy ra hành vi tham nhũng trong đơn vị do mình quản lý.

Mặc dù đề cao trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị đối với việc để xảy ra hành vi tham nhũng trong cơ quan, tổ chức, đơn vị do họ phụ trách nhưng do tính chất phức tạp của tệ nạn tham nhũng nên Luật phòng, chống tham nhũng năm 2005 cũng quy định việc loại trừ trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị trong những trường hợp bất khả kháng, những hành vi tham nhũng vượt ra ngoài khả năng kiểm soát của người lãnh đạo quản lý, trường hợp họ không thể biết được hoặc đã áp dụng các biện pháp cần thiết để phòng ngừa, ngăn chặn hành vi tham nhũng.Ngoài ra, Luật phòng, chống tham nhũng năm 2005cũng quy định nguyên tắc về việc xử lý đối với người đứng đầu và cá nhân có trách nhiệm trong tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp và các tổ chức khác có sử dụng ngân sách nhà nước để xảy ra hành vi tham nhũng thì được thực hiện theo quy định của Luật phòng, chống tham nhũng năm 2005này và điều lệ, quy chế của tổ chức đó.

Cùng với việc xác định trách nhiệm của người đứng đầu, cấp phó của người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị khi để xảy ra tham nhũng, khoản 1 và 2, Điều 55,Luật phòng, chống tham nhũng năm 2005 quy định cụ thể về hình thức xử lý áp dụng đối với họ tuỳ theo mức độ trách nhiệm. Nếu người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị khi phải chịu trách nhiệm trực tiếp về việc để xảy ra hành vi tham nhũng trong cơ quan, tổ chức, đơn vị do mình quản lý, phụ trách thì bị xử lý kỷ luật hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Nếu người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị khi phải chịu trách nhiệm liên đới về việc để xảy ra hành vi tham nhũng trong cơ quan, tổ chức, đơn vị do mình quản lý, phụ trách thì bị xử lý kỷ luật.

Luật phòng, chống tham nhũng năm 2005 cũng quy định việc xem xét miễn giảm trách nhiệm pháp lý nếu họ đã thực hiện các biện pháp cần thiết nhằm ngăn chặn, khắc phục hậu quả của hành vi tham nhũng; xử lý nghiêm minh, báo cáo kịp thời với cơ quan, tổ chức có thẩm quyền về hành vi tham nhũng.

Để tạo điều kiện cho việc xử lý người đứng đầu cơ quan, tổ chức đơn vị khi để xảy ra hành vi tham nhũng, Luật quy định trong kết luận thanh tra, kết luận kiểm toán, kết luận điều tra vụ việc, vụ án tham nhũng phải nêu rõ trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị để xảy ra hành vi tham nhũng theo các mức độ sau đây:

- Yếu kém về năng lực quản lý;

- Thiếu trách nhiệm trong quản lý;

- Bao che cho người có hành vi tham nhũng.

Kết luận phải được gửi cho Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng, cơ quan, tổ chức có thẩm quyền.

Cụ thể những quy định trên của Luật phòng, chống tham nhũng, ngày 22-9-2006 Chính phủ đã ban hành Nghị định số 107/2006/NĐ-CP (sau đây gọi tắt là Nghị định số 107/2006/NĐ-CP) quy định xử lý trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan, tổ chức khi để xảy ra tham nhũng trong cơ quan, tổ chức, đơn vị do mình quản lý, phụ trách. Nghị định số 107/2006/NĐ-CP quy định mức độ của vụ, việc tham nhũng làm căn cứ để xác định trách nhiệm của người đứng đầu, cấp phó của người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị.

Theo quy định tại Điều 4, Nghị định số 107/2006/NĐ-CP, vụ, việc tham nhũng được chia theo các mức độ sau đây:

- Tham nhũng ít nghiêm trọng là vụ, việc mà trong đó người có hành vi tham nhũng chưa đến mức bị truy cứu trách nhiệm hình sự hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự và bị xử phạt bằng hình thức cải tạo không giam giữ đến 3 năm hoặc bị phạt tù đến 3 năm;

- Tham nhũng nghiêm trọng là vụ, việc mà trong đó người có hành vi tham nhũng bị phạt tù từ 3 năm đến 7 năm;

- Tham nhũng rất nghiêm trọng là vụ, việc mà trong đó người có hành vi tham nhũng bị phạt tù từ 7 năm đến 15 năm;

- Tham nhũng đặc biệt nghiêm trọng là vụ, việc mà trong đó người có hành vi tham nhũng bị phạt tù từ 15 năm trở lên, tù chung thân hoặc tử hình.

Về nguyên tắc xử lý trách nhiệm người đứng đầu, cấp phó của người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị, Điều 4, Nghị định số 107/2006/NĐ-CP có quy định:

- Người đứng đầu, cấp phó của người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị nếu phải chịu trách nhiệm trực tiếp về việc để xảy ra hành vi tham nhũng trong cơ quan, tổ chức, đơn vị do mình quản lý, phụ trách thì bị xử lý kỷ luật theo quy định tại Nghị định này hoặc nếu có đủ dấu hiệu cấu thành tội phạm thì bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định của pháp luật.

- Người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị nếu phải chịu trách nhiệm liên đới về việc để xảy ra hành vi tham nhũng trong cơ quan, tổ chức, đơn vị do mình quản lý, phụ trách thì bị xử lý kỷ luật theo quy định tại Nghị định này.

- Trường hợp vụ, việc tham nhũng xảy ra liên quan đến nhiều cơ quan, tổ chức, đơn vị thì ngoài cơ quan, tổ chức, đơn vị xảy ra vụ, việc tham nhũng, người đứng đầu hoặc cấp phó của người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị liên quan có người vi phạm cũng phải chịu trách nhiệm liên đới theo quy định tại Nghị định này.

Việc xử lý kỷ luật người đứng đầu, cấp phó của ngươì đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị để xảy ra tham nhũng trong cơ quan, tổ chức, đơn vị do mình quản lý, phụ trách và người đứng đầu hoặc cấp phó của người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị có liên quan quy định tại khoản 3, Điều 4, Nghị định số 107/2006/NĐ-CP, ngoài việc thực hiện theo các nguyên tắc xem xét xử lý kỷ luật đối với cán bộ, công chức quy định tại Nghị định số 35/2005/NĐ-CP ngày 17-3-2005 của Chính phủ về xử lý kỷ luật cán bộ, công chức, còn thực hiện theo các nguyên tắc sau:

- Căn cứ vào sự phân công, phân cấp quản lý trong cơ quan, tổ chức, đơn vị để xác định mức độ chịu trách nhiệm trực tiếp hoặc trách nhiệm liên đới.

- Căn cứ vào mối quan hệ công tác giữa trách nhiệm quản lý của người đứng đầu, cấp phó của người đứng đầu với hành vi tham nhũng của người dưới quyền.

Về các hình thức xử lý kỷ luật áp dụng đối với người đứng đầu và cấp phó của người đứng đầu khi để xảy ra tham nhũng, Điều 7, Nghị định số 107/2006/NĐ-CP quy định như sau:

Người đứng đầu, cấp phó của người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị, nếu để xảy ra vụ, việc tham nhũng trong cơ quan, tổ chức, đơn vị do mình quản lý, phụ trách thì tuỳ theo tính chất, mức độ của vụ, việc sẽ xử lý kỷ luật như sau:

- Người đứng đầu, cấp phó của người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị là cán bộ, công chức quy định tại các điểm b, c, d, đ, e và h khoản 1, Điều 1, Pháp lệnh cán bộ, công chức (đã được Uỷ ban Thường vụ Quốc hội sửa đổi, bổ sung ngày 29-4-2003, sau đây gọi chung là Pháp lệnh cán bộ, công chức)[3] và viên chức quản lý doanh nghiệp nhà nước thì bị xử lý kỷ luật bằng một trong những hình thức sau:

+ Khiển trách;

+ Cảnh cáo;

+ Cách chức.

- Người đứng đầu, cấp phó của người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị là cán bộ, công chức quy định tại điểm a và g khoản 1,Điều 1, Pháp lệnh cán bộ, công chức thì bị xử lý kỷ luật theo quy định của pháp luật và điều lệ của tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội.

- Người đứng đầu, cấp phó của người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị thuộc tổ chức chính trị - xã hội - nghề nghiệp, tổ chức xã hội - nghề nghiệp, tổ chức xã hội thì bị xử lý kỷ luật theo quy định tại điều lệ của tổ chức đó.

- Người đứng đầu, cấp phó của người đứng đầu cơ quan, đơn vị là sĩ quan, hạ sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp trong Quân đội nhân dân và Công an nhân dân thì bị xử lý kỷ luật theo quy định của pháp luật đối với sĩ quan, hạ sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp trong Quân đội nhân dân và Công an nhân dân.

Về việc xác định các hình thức kỷ luật cụ thể:

- Hình thức khiển trách được áp dụng trong trường hợp người đứng đầu, cấp phó của người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị để xảy ra vụ, việc tham nhũng nghiêm trọng hoặc nhiều vụ, việc tham nhũng ít nghiêm trọng trong cơ quan, tổ chức, đơn vị do mình quản lý, phụ trách.

- Hình thức cảnh cáo được áp dụng trong trường hợp người đứng đầu, cấp phó của người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị để xảy ra vụ, việc tham nhũng rất nghiêm trọng hoặc nhiều vụ, việc tham nhũng nghiêm trọng trong cơ quan, tổ chức, đơn vị do mình quản lý, phụ trách.

- Hình thức cách chức được áp dụng trong trường hợp người đứng đầu, cấp phó của người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị để xảy ra vụ, việc tham nhũng đặc biệt nghiêm trọng hoặc nhiều vụ, việc tham nhũng rất nghiêm trọng trong cơ quan, tổ chức, đơn vị do mình quản lý, phụ trách. 

Điều 11, Nghị định số 107/2006/NĐ-CP cũng quy định các trường hợp loại trừ trách nhiệm, miễn, giảm nhẹ hoặc tăng nặng hình thức kỷ luật như sau:

- Người đứng đầu, cấp phó của người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị được loại trừ trách nhiệm trong trường hợp họ không thể biết hoặc đã áp dụng các biện pháp cần thiết để phòng ngừa, ngăn chặn hành vi tham nhũng. 

- Người đứng đầu, cấp phó của người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị để xảy ra tham nhũng trong cơ quan, tổ chức, đơn vị do mình quản lý, phụ trách và bị xử lý kỷ luật bằng hình thức khiển trách, nếu trước đó đã tự nguyện xin từ chức và đã được cấp có thẩm quyền chấp thuận thì được miễn xử lý kỷ luật. 

- Người đứng đầu, cấp phó của người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị để xảy ra tham nhũng trong cơ quan, tổ chức, đơn vị do mình quản lý, phụ trách được giảm nhẹ một mức kỷ luật nếu thuộc một trong các trường hợp sau:

+ Đã có đơn xin từ chức và đã được cấp có thẩm quyền chấp thuận;

+ Đã thực hiện các biện pháp cần thiết nhằm ngăn chặn, khắc phục hậu quả của hành vi tham nhũng; đã xử lý nghiêm minh, báo cáo kịp thời với cơ quan, tổ chức có thẩm quyền về hành vi tham nhũng. 

- Người đứng đầu, cấp phó của người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị để xảy ra tham nhũng trong cơ quan, tổ chức, đơn vị do mình quản lý, phụ trách, nếu không thực hiện các biện pháp cần thiết nhằm ngăn chặn, khắc phục hậu quả của hành vi tham nhũng hoặc nếu phát hiện hành vi tham nhũng mà không xử lý nghiêm minh, không báo cáo kịp thời với cơ quan, tổ chức có thẩm quyền thì phải tăng nặng một mức kỷ luật.

Ngoài việc quy định xử lý người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị để xảy ra tham nhũng trong cơ quan, tổ chức, đơn vị do mình quản lý thì Nghị định số 107/2006/NĐ-CP cũng có quy định về xử lý trách nhiệm đối với người đứng đầu ngành, lĩnh vực và người đứng đầu địa phương đã để xảy ra tình trạng tham nhũng nghiêm trọng và gây ảnh hưởng xấu, cụ thể là (Điều 12), bộ trưởng, thủ trưởng cơ quan ngang bộ, thủ trưởng cơ quan thuộc Chính phủ và tương đương; chủ tịch hội đồng nhân dân, chủ tịch ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương nếu để xảy ra vụ, việc tham nhũng đặc biệt nghiêm trọng, gây ảnh hưởng xấu về chính trị, kinh tế - xã hội thuộc phạm vi quản lý của bộ, ngành, địa phương mình thì phải chịu trách nhiệm và bị xử lý các hình thức kỷ luật theo quy định tại khoản 1 hoặc khoản 2, Điều 7, Nghị định này.

Vấn đề xử lý trách nhiệm người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị khi để xảy ra tham nhũng rất phức tạp, liên quan đến phân cấp quản lý cán bộ và việc lựa chọn, bổ nhiệm cán bộ. Về nguyên tắc, cán bộ lãnh đạo, quản lý phải chịu trách nhiệm về việc làm của cấp dưới thuộc quyền. Nhưng nguyên tắc này chỉ hợp lý và chỉ có thể thực hiện được khi người đứng đầu được quyền lựa chọn cấp dưới của mình. Chính vì vậy, Nghị quyết Hội nghị Trung ương ba khoá X về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí đã chỉ rõ cầnsửa đổi, bổ sung quy định về bổ nhiệm, phân cấp quản lý cán bộ theo hướng tăng quyền hạn cho người đứng đầu cơ quan, tổ chức gắn với trách nhiệm cá nhân trong việc lựa chọn, bổ nhiệm, khen thưởng, kỷ luật cấp phó và cán bộ cấp dưới trực tiếp trên cơ sở thảo luận dân chủ trong tập thể lãnh đạo. Nghiên cứu cơ chế thủ trưởng cơ quan hành chính cấp trên bổ nhiệm thủ trưởng cơ quan hành chính cấp dưới.

Chiến lược quốc gia phòng, chống tham nhũng đến năm 2020 cũng nhấn mạnh vấn đề trách nhiệm của người đứng đầu thể hiện ở giải pháp: thực hiện phân công, phân cấp rõ ràng; quy định cụ thể, rành mạch chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mỗi cấp quản lý, khắc phục tình trạng chồng chéo, bỏ trống trong hoạt động quản lý. Quy định chức trách của từng vị trí công tác, nhất là trách nhiệm của người đứng đầu trong cơ quan, tổ chức, đơn vị và căn cứ vào kết quả thực hiện chức trách đó để đánh giá cán bộ, công chức.

6. Cải cách hành chính, đổi mới công nghệ quản lý và phương thức thanh toán nhằm phòng ngừa tham nhũng

Quản lý là phương diện hoạt động quan trọng của bộ máy nhà nước, diễn ra trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội và ảnh hưởng đến quyền lợi của mọi người dân. Đây cũng là nơi tình trạng tham nhũng xảy ra nhiều nhất. Đó là lý do mà cải cách hành chính luôn là mối quan tâm thường xuyên của Đảng và Nhà nước ta trong quá trình cải cách bộ máy nhà nước, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân như đã được ghi nhận tại Hiến pháp năm 1992; sửa đổi, bổ sung năm 2001. Cải cách hành chính là công việc có tính chất thường xuyên, lâu dài, liên tục với mục tiêu xây dựng một nền hành chính trong sạch, hiện đại, hoạt động có hiệu quả, hiệu lực và thể hiện tính phục vụ. Cải cách hành chính bao gồm rất nhiều nội dung phong phú và toàn diện, từ cải cách thể chế, tổ chức bộ máy, quản lý và sử dụng cán bộ, công chức, quản lý tài chính công...

Luật phòng, chống tham nhũng năm 2005 có một số quy định về cải cách hành chính để góp phần phòng ngừa tham nhũng. Trong đó có nội dung: Nhà nước thực hiện cải cách hành chính nhằm tăng cường tính độc lập và tự chịu trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, đơn vị; đẩy mạnh việc phân cấp quản lý nhà nước giữa Trung ương và địa phương, giữa các cấp chính quyền địa phương; phân định rõ nhiệm vụ, quyền hạn giữa các cơ quan nhà nước; công khai, đơn giản hoá và hoàn thiện thủ tục hành chính; quy định cụ thể trách nhiệm của từng chức danh trong cơ quan, tổ chức, đơn vị.

Thực hiện quy định này, Chính phủ đã ban hành Nghị quyết số 53/2007/NQ-CP ngày 07-1-2007 ban hành Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa X về đẩy mạnh cải cách hành chính, nâng cao hiệu lực, hiệu quả của bộ máy nhà nướcđặt ra yêu cầu các bộ, ngành, địa phương đã đẩy mạnh công tác rà soát thủ tục hành chính để sửa đổi, bổ sung hoặc bãi bỏ những quy định không còn phù hợp; công khai các thủ tục hành chính, thực hiện cơ chế “một cửa” và “một cửa liên thông” trong việc giải quyết công việc của người dân và doanh nghiệp đến cấp xã, áp dụng tiêu chuẩn ISO 9001:2000 vào quản lý hành chính.

Luật phòng, chống tham nhũng năm 2005 cũng quy định có tính chất định hướng cho các cơ quan nhà nước áp dụng khoa học - công nghệ trong quản lý nhằm giảm bớt cơ hội và nguy cơ xảy ra tham nhũng, nhất là việc tiếp xúc trực tiếp giữa người quản lý và người bị quản lý trong những trường hợp không cần thiết. Theo đó, cơ quan, tổ chức, đơn vị thường xuyên cải tiến công tác, tăng cường áp dụng khoa học - công nghệ trong hoạt động của mình, tạo thuận lợi để công dân, cơ quan, tổ chức, đơn vị thực hiện quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Cơ quan, tổ chức, đơn vị có trách nhiệm hướng dẫn trình tự, thủ tục giải quyết công việc để cơ quan, tổ chức, đơn vị, cá nhân chủ động thực hiện mà không phải trực tiếp tiếp xúc với cán bộ, công chức, viên chức.

Một giải pháp phòng ngừa tham nhũng quan trọng nữa mà Luật phòng, chống tham nhũng năm 2005 có quy định đó là vấn đề đổi mới phương thức thanh toán. Hiện nay, về cơ bản nền kinh tế của chúng ta vẫn là nền kinh tế tiền mặt, các giao dịch chủ yếu bằng tiền mặt, rất khó kiểm soát, kể cả các khoản thu nhập của cán bộ, công chức từ ngân sách nhà nước. Vì vậy, cùng với việc áp dụng khoa học - công nghệ trong quản lý, cần phải đổi mới phương thức thanh toán để kiểm soát chặt chẽ hơn các giao dịch, nhất là những khoản chi có sử dụng ngân sách nhà nước và các khoản chi liên quan đến cán bộ, công chức, viên chức để bảo đảm sự minh bạch trong các nguồn thu nhập của họ.

Cụ thể là:

- Nhà nước áp dụng các biện pháp quản lý để thực hiện việc thanh toán thông qua tài khoản tại ngân hàng, kho bạc nhà nước. Cơ quan, tổ chức, đơn vị có trách nhiệm thực hiện các quy định về thanh toán bằng chuyển khoản.

- Chính phủ áp dụng các giải pháp tài chính, công nghệ, tiến tới thực hiện mọi khoản chi đối với người có chức vụ, quyền hạn... và các giao dịch khác có sử dụng ngân sách nhà nước phải thông qua tài khoản.

Đến nay, việc trả lương qua tài khoản cho cán bộ công chức, viên chức đã từng bước được thực hiện theo Chỉ thị số 20/2007/CT-TTg của Thủ tướng Chính phủ.

Vấn đề cải cách hành chính cũng được đề cập rất cụ thể trong Chiến lược quốc gia phòng, chống tham nhũng đến năm 2020, đặc biệt là trong nhóm giải pháp về tăng cường tính công khai, minh bạch trong hoạch định chính sách, xây dựng và thực hiện pháp luật và giải pháp về hoàn thiện chế độ công vụ, công chức, nâng cao chất lượng thực thi công vụ. Chiến lược yêu cầu:

- Minh bạch hóa quá trình soạn thảo, trình, ban hành chính sách, pháp luật; quá trình chuẩn bị, trình, ban hành quyết định, văn bản hành chính gắn liền với việc cải cách thủ tục hành chính.

- Thực hiện phân công, phân cấp rõ ràng; quy định cụ thể, rành mạch chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mỗi cấp quản lý, khắc phục tình trạng chồng chéo, bỏ trống trong hoạt động quản lý.

- Hoàn thiện và thực hiện nghiêm túc các quy định về tuyển dụng, tiếp nhận, bổ nhiệm, bổ nhiệm lại, điều động nhằm nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức; xử lý kiên quyết, kịp thời các vi phạm trong quản lý và sử dụng cán bộ, công chức;

- Tiếp tục hoàn thiện và thực hiện cơ chế về trách nhiệm giải trình của cán bộ, công chức, nhất là đối với cán bộ lãnh đạo, quản lý; cơ chế miễn nhiệm, bãi nhiệm, cho từ chức, tạm đình chỉ chức vụ của người đứng đầu khi để xảy ra tham nhũng trong cơ quan, tổ chức, đơn vị do mình quản lý, phụ trách;

- Cải cách cơ bản chế độ tiền lương, phụ cấp, bảo đảm để cán bộ, công chức có mức thu nhập tương đương mức thu nhập khá trong xã hội; thực hiện chính sách tiền lương hợp lý trong một số lĩnh vực đặc thù; nghiên cứu bổ sung chính sách đãi ngộ đối với cán bộ, công chức v.v..

Các tin khác
Xem tin theo ngày  
Thống kê truy cập
Tổng truy cập 7.210.272
Truy cập hiện tại 373