Tìm kiếm
 
 
 
 

Chung nhan Tin Nhiem Mang

 

Pháp luật thời phong kiến Việt Nam về phòng, chống tham nhũng
False 210161Ngày cập nhật 17/09/2021

Trong mọi thời lỳ, mọi hoàn cảnh lịch sử và điều kiện xã hội, tham nhũng luôn là mối nguy hại đối với sự ổn định và phát triển của đất nước. Thời đại phong kiến Việt Nam cũng không là ngoại lệ. Cùng tìm hiểu chính sách pháp luật dưới thời phong kiến về phòng, chống tham nhũng:

1. Tham nhũng là gì?

Tham nhũng là một “căn bệnh của quyền lực” xuất hiện từ khá sớm trong xã hội loài người, từ khi xã hội phân chia quyền lực, hình thành giai cấp và nhà nước. Là “hành vi lệch chuẩn của nhân viên công quyền để mưu cầu tư lợi” – một “căn bệnh” mà lực lượng cầm quyền thường mắc phải nên tham nhũng luôn là vấn nạn gắn với thiết chế nhà nước trong các thời đại lịch sử. Ở Việt Nam, từ thời phong kiến, cha ông ta đã sớm nhận diện được tác hại của tham nhũng và kiên quyết phòng chống tệ nạn này bằng nhiều biện pháp tích cực, lấy pháp luật làm công cụ chủ yếu.

2. Thời đại phong kiến Việt Nam

Là một giai đoạn phát triển tất yếu của lịch sử loài người, phù hợp với quy luật tiến hóa của lịch sử, “phong kiến cũng là một bước tiến tất nhiên của xã hội” (Hồ Chí Minh). Ở Việt Nam, chế độ phong kiến không những là giai đoạn phát triển tất yếu mà còn là giai đoạn lịch sử dài nhất trong quá trình phát triển của các chế độ xã hội có giai cấp, kể từ khi bắt đầu hình thành vào đầu thế kỷ thứ II tr.CN đến khi thực dân Pháp nổ súng xâm lược (giữa thế kỷ XIX). Cũng như nhiều nước khác, giai cấp phong kiến Việt Nam là giai cấp thống trị xã hội qua nhiều thế kỷ, tích lũy nhiều kinh nghiệm quản lý xã hội và tinh hoa. Là một bộ phận/nội dung quan trọng của đường lối trị nước nên ngay từ thời phong kiến, ông cha ta đã tìm ra những “phương thuốc điều trị” căn bệnh tham ô, tham nhũng.

3. Tham nhũng là mối nguy hại đối với sự tồn vong của chế độ, phải bị lên án và trừng trị nghiêm khắc

Ngay từ rất sớm, các vị quân vương đã xác định tham nhũng là hành vi xâm hại trật tự pháp luật, đạo đức và sự tồn vong của chế độ, phải bị lên án và trừng trị nghiêm khắc.

Tham ô, tham nhũng là hệ quả tất yếu của nền kinh tế kém phát triển, quản lý kinh tế – xã hội lỏng lẻo tạo ra nhiều sơ hở cho các hành vi tiêu cực và để lại hậu quả to lớn, như: làm tha hóa một bộ phận quan lại đương quyền, làm suy yếu tiềm lực của quốc gia – dân tộc, làm chậm sự phát triển kinh tế – xã hội, xuống cấp đạo đức xã hội, làm mất/giảm lòng tin của người của nhân dân vào chính quyền; làm suy yếu thể chế chính trị, gây mất ổn định chính trị – xã hội. Cũng do tệ tham nhũng của quan lại và dân chúng cơ cực lầm than mà sinh ra nạn giặc giã, nổi loạn. Tệ nạn tham ô, tham nhũng trở thành “quốc nạn”, “nội nạn” hay “vấn nạn quốc gia” ảnh hưởng trực tiếp đến sự thịnh suy của triều đại mà nó can dự, đưa đến gãy đổ nền móng thể chế chính trị, thậm chí trở thành một trong những nguy cơ mất nước. Cũng bởi mối nguy hại ấy mà bất kỳ thể chế, triều đại nào cũng đều muốn bài trừ, tiêu diệt loại giặc nội xâm cực kỳ nguy hiểm này.

Xuất phát từ việc nhận định đúng đắn những nguy cơ của tham nhũng với nhà nước, chế độ xã hội mà các triều đại Lý – Trần- Lê – Nguyễn đã có thái độ và biện pháp kiên quyết bài trừ tham nhũng để bảo vệ vững chắc sự thống trị của vương triều. Nhận thức được mối nguy hiểm, hậu quả to lớn của tham nhũng và để phòng chống, xử lý tệ nạn này, các vị vua đã chỉ đạo triều đình xây dựng các luật lệ quy định việc xác định, xét xử và trừng trị tội phạm này theo quan điểm tham nhũng là một trọng tội không được dự phần khoan hồng, ân xá của nhà nước. Theo đó, quan lại ở mọi cấp, mọi chức vụ mà lợi dụng chức quyền và ảnh hưởng của mình (dù ở bất cứ hoàn cảnh nào với những cách thức nào) tham ô tiền bạc, tài sản của nhà nước, của công và của nhân dân đều được coi là vi phạm nghiêm trọng đạo đức, pháp luật và đều phải bị nghiêm trị.

Từ thời nhà Lý (1009 – 1225) đã có những quy định cụ thể về việc trừng trị những hành vi tham ô, ăn trộm của công. Trong quy định về thể lệ thu thuế có định rõ, các quan lại thu thuế của nhân dân, ngoài mười phần đóng vào kho nhà nước, được thu riêng một phần gọi là “hoành đầu”. Kẻ nào thu quá số ấy thì bị khép vào tội ăn trộm. Khố ty thu thuế lụa, nếu ăn lễ lấy lụa của nhân dân thì cứ mỗi thước lụa phạt 100 trượng; một tấm lụa đến trên 10 tấm thì theo số tấm, thêm phối dịch 10 năm. Triều Lý cũng là nhà nước quân chủ đầu tiên ban hành bộ luật thành văn với tên gọi Hình thư (năm 1042). Bộ luật này hiện không lưu giữ được, tuy nhiên qua những chiếu chỉ còn lưu lại cho thấy, cùng với các tội về Thập ác thì tội tham nhũng được luật pháp đặc biệt quan tâm và có những chế tài nghiêm khắc.

Dưới các triều đại Lê Thánh Tông (1442 – 1497) và Minh Mệnh (1791-1840), phòng chống tham nhũng được các vị vua và triều đình hết sức quan tâm. Phòng chống tham nhũng trở thành một nhiệm vụ cấp bách trong đường lối cai trị của nhà Lê sơ (1428-1527), đặc biệt dưới triều Lê Thánh Tông. Năm 1483 Lê Thánh Tông cho ban hành Quốc triều hình luật (hay Lê triều hình luật/Luật Hồng Đức) – bộ luật quan trọng và chính thống nhất dưới triều Lê sơ, cũng là bộ luật tiến bộ và hoàn chỉnh nhất ở Việt Nam thời phong kiến. Một trong những nội dung chủ yếu trong bộ luật là phòng chống tham ô, tham nhũng. Luật Hồng Đức đã xem tham nhũng là một trong những tội danh nguy hiểm nhất đe dọa nghiêm trọng đến uy tín, địa vị tối thượng của nhà vua, sự tồn vong của chế độ phong kiến và trật tự, kỷ cương, sự ổn định của xã hội. Vì vậy những ai phạm vào tội danh này đều bị trừng trị với những hình phạt nghiêm khắc, như đồ, lưu, tử. Đa số các điều luật có nội dung phản ánh như trên đều quy định mức xử phạt nghiêm khắc đối với các hành vi tham ô, nhận hối lộ của quan lại với những mức hình phạt cụ thể: nhẹ thì cách chức, bãi chức; nặng hơn thì xử lưu, xử đồ. Một số điều luật quy định mức hình phạt tử hình – hình phạt nặng nhất đối với các trường hợp phạm tội có tình tiết nghiêm trọng bằng cách chết thắt cổ (giảo), chém (trảm), chém bêu đầu (trảm khiêu) – tùy theo tội. Nội dung các điều luật phản ánh khá cụ thể chế tài xử phạt các hành vi, biểu hiện có liên quan đến tội tham ô, hối lộ và đối tượng chế tài của phần lớn những điều luật là đội ngũ quan lại và những người có chức có quyền đã cho thấy nhà Lê sơ rất coi trọng việc xử phạt tội này.

Đến thời nhà Nguyễn (1802- 1945) sau khi lên ngôi vua Gia Long (1762 – 1820) sai đình thần soạn một Bộ luật mới, giao nhiệm vụ cho Nguyễn Văn Thành (Tổng trấn Bắc thành) làm Tổng tài biên soạn, Vũ Trinh (từng giữ chức Thượng thư bộ Lễ) và Trần Hựu (Đông các học sĩ). Nguyễn Văn Thành đã kê khảo lệnh điều các triều, tham chiếu Hồng Đức pháp điển và Đại Thanh luật lệ, biên soạn thành Hoàng Việt luật lệ (Luật Gia Long). Bộ luật gồm 22 quyển, chia thành 7 chương 398 điều và 30 điều tỷ dẫn; trong đó 17 quyển và 79 điều quy định riêng về luật hình đối với các tội tham ô, nhũng nhiễu và gần 20 điều khoản quy định cụ thể về vấn đề này với những quy định rất hà khắc.

Nhìn lại các bộ luật cũng như các văn bản pháp luật của những triều đại phong kiến Việt Nam trước đây, có thể thấy rõ những quy định khắt khe, thống nhất đối với giới quan lại, nghiêm cấm các hành vi mà quan lại không được làm. Những quy định đó cho thấy rõ, ý thức, chủ trương và quyết tâm của các vị vua và triều đại trong việc loại trừ một cách kiên quyết nhất tệ nạn này.

4. Kết hợp “xây” với “chống”, đức trị và pháp trị trong phòng chống tham nhũng

Để phòng tránh tệ tham nhũng, các vị vua thường ban hành chỉ, dụ để khuyên răn quan lại thường xuyên rèn luyện bản thân, tránh phạm phải những điều cấm đoán; nếu đã mắc lỗi lầm, cần nghiêm khắc sửa chữa để trở thành người thanh liêm, chính trực. Đây là biện pháp có tính giáo dục, răn đe nhẹ nhàng mà các vị vua thường áp dụng để nâng cao đạo đức của người làm quan, ngăn ngừa những hành vi tham nhũng. Cũng không chỉ có ý nghĩa khuyên răn, các chỉ dụ của nhà vua còn bắt buộc quan lại phải tuân theo và thực hiện những lời khuyên răn đó.

Là một trong những vị vua có tư tưởng phòng chống tham quan ô lại rất tích cực, trong 38 năm trị vì (1460-1497), vua Lê Thánh Tông đã dành nhiều tâm huyết cho việc tăng cường kỉ cương pháp luật, cải cách thể chế hành chính, chấn chỉnh bộ máy quan lại. Nhận thức được rằng, quan hệ vua – dân có tốt hay không, chính sách nhân đức của vua có đến với người dân hay không phụ thuộc vào yếu tố trung gian là quan lại. Lê Thánh Tông chuyển trọng tâm trị nước vào trị quan (trị quan rồi mới trị dân) và biện pháp quan trọng trước hết là giáo dục, tuyên truyền ý thức pháp luật cho đội ngũ quan chức, nhất là những quan chức cao cấp. Trong đó, việc phòng chống các hành vi tham ô, hối lộ, thanh trừng bè lũ tham quan ô lại được ông hết sức coi trọng và thực hiện thông qua nhiều biện pháp như: Giáo dục, cảnh tỉnh trăm quan từ bỏ thói tham ô nhũng nhiễu, mong muốn bộ máy quan chức trong triều đình chí công vô tư, tránh xa được tệ nạn tham ô, hối lộ ở chốn quan trường; Thi hành chính sách bổng lộc để hạn chế tham ô, hối lộ; Xây dựng hệ thống pháp luật với nhiều quy định về phòng chống tham ô; Thiết lập cơ chế thanh tra, giám sát đối với quan lại các cấp

Tiếp tục sau này, nhà Nguyễn lấy Nho giáo làm học thuyết nền tảng để xây dựng xã hội, đội ngũ quan lại phần đông được tuyển chọn từ các trí thức Nho học, chịu ảnh hưởng của luân lý Khổng-Mạnh. Nhận thức đúng đắn về tác hại của nạn tham nhũng trong bộ máy hành chính, ngay từ năm đầu lên ngôi (1820), khi bổ nhiệm các chức vụ Hiệp trấn, Trấn thủ, vua Minh Mệnh đã răn dạy quần thần: “Bề tôi làm việc, nhầm lẫn thì có thể tha, tham nhũng thì không khoan thứ được. Là vị hoàng đế sùng Nho học nên Minh Mệnh nhận thức rằng sự liêm chính của quan lại là quan trọng nhất. Nhà vua nhiều lần xuống dụ và hướng dẫn cho quan lại Bắc Thành sao cho liêm chính và đúng phép công.

Cũng không chỉ khuyên răn nhắc nhở, nhà nước còn áp dụng nhiều biện pháp để kiểm tra sự thanh liêm chính trực của quan lại; cho phép các quan lại được tố cáo, tâu bầy, đàn hặc những hành vi tham nhũng lên thẳng vua, để nhà vua có biện pháp xử lý kịp thời. Hầu hết các triều đại đều có bộ máy chuyên trách thực hiện chức năng giám sát, đàn hạch các quan lại. Các quan lại giám sát được xếp vào hàng quan trọng và có phẩm hàm cao trong bộ máy nhà nước phong kiến. Để giám sát có hiệu quả, các triều đại cũng đề cao vai trò của cơ quan giám sát, người đứng đầu cơ quan giám sát chỉ chịu trách nhiệm trước Hoàng đế – cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất thời phong kiến và nhà nước phong kiến cũng trao quyền công tố cho các cơ quan giám sát.

Mặc dù các vị vua từng hết lời răn bảo, nhưng những kẻ tham quan sâu mọt trong xã hội vẫn không chịu từ bỏ tà tâm của mình, để ngoài tai những lời cảnh tỉnh. Khuyên răn chưa đủ, các nhà nước phong kiến thấy rõ cần phải dùng đến luật pháp để nghiêm trị những kẻ tham quan ô lại. Từ thời nhà Lý đã có những quy định cụ thể về việc trừng trị những hành vi tham ô, ăn trộm của công. Và “bộ luật Hình thư được ban hành để khẳng định quyền lợi, địa vị của nhà nước phong kiến và giai cấp quý tộc quan liêu, đồng thời là công cụ để ổn định xã hội, giữ gìn kỷ cương, bảo vệ sản xuất nông nghiệp”.

So với thời Lý-Trần, pháp luật thời Lê Thánh Tông đã có bước tiến lớn trong việc pháp điển hóa các quy định về phòng chống tham ô, hối lộ.

Kế tục những tư tưởng pháp luật về phòng chống tham nhũng thời Lê, Luật Gia Long có 17 quyển quy định riêng về luật hình đối với tội nhận đút lót (hối lộ) và gần 20 điều khoản quy định liên quan tới nội dung này. Về nội dung, các bộ luật cũng như trong những văn bản pháp luật khác của các triều đại phong kiến đều có những quy định nghiêm cấm các hành vi mà quan lại không được làm (nếu quan lại nào vi phạm đều bị trị tội theo pháp luật).

Nhìn chung, pháp luật phong kiến Việt Nam thường phân chia các hành vi tham nhũng ở nhóm tội ngoài thập ác và không được chuộc tội bằng tiền. Chế độ thưởng phạt được xác định và áp dụng thường xuyên một cách khá công minh để khuyến khích quan lại hết lòng phụng sự đất nước, ngăn ngừa tham ô, tham nhũng. Cùng với chủ trương nghiêm phạt, việc thưởng được các triều đại từng bước phối hợp để phát huy hiệu quả đấu tranh phòng chống tham nhũng. Luật Hồng Đức cho thấy sự nghiêm khắc của pháp luật ngày xưa, như: chỉ tham ô một quan tiền là mất chức, 20 quan tiền là bị tử hình. Quan chế thời Lê Thánh Tông còn bao gồm các quy định, thiết chế về phòng chống, xử lý nghiêm minh hành vi tham nhũng của quan lại. Việc chống tham nhũng cũng được tiến hành từ các quan to đầu triều xuống tận đến địa phương. Các triều đại phong kiến cũng quy định rõ cách thức xử lý tài sản có được do tham nhũng: của hối lộ bỏ vào kho một phần, một phần “trả lại cho chủ”,

Luật pháp phong kiến cũng có một số quy định cần thiết và khá cụ thể, như: quan lại không được lấy vợ, kết làm thông gia với người ở nơi mình cai quản; không đưa quan lại về quê hương bản quán trị nhậm; không được tậu ruộng vườn, đất đai, nhà cửa, dinh thự tại nơi cai quản; không được đưa người cùng quê làm giúp việc; không cho những người có quan hệ thầy trò, bạn bè làm việc cùng một nơi (vì dễ dẫn đến cấu kết bè cánh, hội thuyền). Cùng với nghiêm cấm các hành vi tham nhũng, các triều đại phong kiến còn đặt ra những quy định về tiêu chuẩn của một người làm quan liêm khiết.

Nhìn lại các bộ luật cũng như các văn bản pháp luật của nhiều triều đại phong kiến Việt Nam trước đây, thấy rõ một điều: có những quy định khắt khe, hình phạt rất nặng, nhưng nhờ thế việc lợi dụng, lạm dụng chức vụ, quyền hạn, nạn tham ô công quỹ, nhũng nhiễu nhân dân đã được hạn chế. Chính nhờ những biện pháp kiên quyết và phù hợp như vậy mà nhiều triều đại đã duy trì được tồn tại lâu dài (các triều đại Lý, Trần, Hậu Lê, Nguyễn) đồng thời quản lý, điều hành đất nước vượt qua những thử thách, khó khăn (do nạn ngoại xâm, thiên tai đe dọa).

5. Chú trọng phòng ngừa và kiên quyết xử lý tham nhũng

Mặc dù còn bị hạn chế bởi tư tưởng phong kiến trong quản lý và điều hành xã hội, song các triều đại phong kiến Việt Nam đều chủ động phòng, chống tệ nạn tham nhũng, trong đó các biện pháp phòng ngừa luôn được ưu tiên, coi trọng. Mặc dù những đạo luật nổi tiếng của các triều đại phong kiến là những bộ hình luật cho thấy pháp luật thiên về quy định các biện pháp trừng phạt. Tuy nhiên, các bộ hình luật cũng như những sắc, lệnh, chỉ dụ của các vị vua cũng thể hiện rất rõ tinh thần, tư tưởng của các triều đại là nhất quán quan điểm “phòng bệnh hơn chữa bệnh”, đề cao biện pháp phòng ngừa tham nhũng, coi phòng ngừa là một trong những biện pháp quan trọng, có ý nghĩa quyết định đối với việc xây dựng và duy trì bộ máy nhà nước phong kiến trong sạch, không có chỗ cho những tham quan ô lại.

– Vua quan nêu tấm gương sáng chống tham những để thiên hạ noi theo (trước là làm gương, sau là luật:

– Cử quan lại thanh liêm giữ các chức vụ quan trọng:

– Thường xuyên kiểm tra, khảo hạch quan lại để khen thưởng người liêm khiết, xử lý người có hành vi tham nhũng:

– Kiên quyết ngăn chặn và xử lý nạn tham nhũng: Không chỉ dừng lại ở những hành động cụ thể, các vị vua còn ban hành các đạo luật, chiếu chỉ, sắc, dụ để xử lý hành vi tham nhũng.

Phòng chống tham nhũng với các giải pháp phù hợp, hiệu quả

Đề ngăn chặn tham nhũng trong bộ máy, các nhà nước phong kiến đã tiến hành nhiều biện pháp như:

– Tuyển chọn, sử dụng, rèn luyện và sát hạch đội ngũ quan lại: các triều đại phong kiến Việt Nam đều nhận thức rất rõ được tầm quan trọng và quyết định sự thịnh suy của quốc gia là do đội ngũ quan lại tốt hay kém. Người làm quan đương nhiên là phải có đức tài, chức quan càng to thì đòi hỏi về đức tài càng lớn. Việc tuyển chọn người làm quan được xem như tuyển chọn nhân tài – việc hệ trọng của quốc gia và được xây dựng thành một chế độ có tính khách quan, nhằm quy tụ và sử dụng được nhiều nhân tài cho đất nước. Từ đời nhà Lý (1010 – 1225), với mục đích “truất bãi người ươn hèn, cất nhắc người mẫn cán”, nhà nước đã đặt lệ khảo khóa quan lại. Việc sử dụng tầng lớp tinh hoa (tầng lớp tri thức Nho giáo) tham gia trực tiếp vào bộ máy quản lý đã được xem là một nguyên tắc.Với nhận thức rằng người có đức, có tài nhậm chức thì trị. Người vô tài, thất đức nắm giữ quyền hành thì loạn [7], các vua triều Lê sơ đã đặc biệt coi khâu tuyển chọn quan lại như một nhiệm vụ quan trọng hàng đầu.

Một biện pháp quan trọng được coi là kinh nghiệm sử dụng quan lại của các triều đình phong kiến là thực hiện chế độ Hồi tỵ - quy định cụ thể về việc bổ nhiệm, sử dụng quan lại để phòng chống tham nhũng quyền lực (nạn kéo bè kéo cánh, cả nhà làm quan) được sử dụng nghiêm ngặt dưới các thời Lê – Nguyễn. Tinh thần của hồi tỵ là ngăn chặn để không kéo bè kéo đảng, nâng đỡ người thân quen. Do đó luật không cho phép một người được làm quan trên quê quán của mình, cũng không cho phép những người thân như anh em, cha con, thầy trò, người cùng quê,… được làm quan cùng một chỗ. Nó cũng được áp dụng chặt chẽ trong các kỳ thi Hương, thi Hội, thi Đình, kiểu như con thi thì cha không được làm, không được tổ chức thi cùng một nơi,…

Cùng với Luật hồi tỵ, chế độ Luân quan (luân chuyển quan lại) cũng được các triều đại phong kiến Việt Nam thực hiện từ sớm và trở thành chính sách, chế độ được tiến hành thường xuyên trên phạm vi toàn quốc.

– Quan tâm xây dựng một chế độ lương bổng công bằng, hợp lý cho đội ngũ quan lại: Một trong những biện pháp được các triều đình phong kiến thiết lập và luôn cố gắng thực hiện là định rõ chế độ bổng lộc cho đội ngũ quan lại, tùy thuộc vào chức quan và tính chất công việc cũng như khả năng của từng người. Vua Lê Thánh Tông cho rằng: “Cấp bổng lộc để khuyến khích lập công, tùy theo trách nhiệm là nặng hay nhẹ. Các bậc hoàng tôn, công thần, tuy không hạn chế về phẩm trật, nhưng cũng có thứ bậc khác nhau; các chức quan văn võ trị nhậm trong ngoài, công việc, trách nhiệm khác nhau, cũng nên xét rõ khó nhọc hay nhàn rỗi”.

– Chú trọng cải cách hành chính: Là một đất nước có chiều dài lịch sử, các triều đại phong kiến Việt Nam trong các giai đoạn đều dần hướng tới sự ổn định, xây dựng chính quyền trong sạch, vững mạnh, đề cao liêm chính để nâng cao hiệu quả bộ máy nhà nước. Song song với cải cách, củng cố bộ máy nhà nước, để phòng chống tham nhũng, các triều đình phong kiến còn có những biện pháp, quy chế tương đối chặt chẽ để có thể giám sát hành vi của đội ngũ quan lại các cấp, kiện toàn và duy trì có hiệu quả hoạt động của các cơ quan giám sát thực quyền.

Nhà Lê đã cho thành lập tổ chức giám sát từ Trung ương đến địa phương: tháng 2/1429, Lê Thái Tổ cho đặt chức quan Ngự sử đài để coi việc kiểm soát quan lại và xét xử án kiện với các chức: Thị ngự sử, Trung thừa, Phó trung thừa, Giám sát ngự sử, Chủ bạ [3],… Tháng 2/1459, cùng với việc cho đặt lại Lục bộ (sáu cơ quan trung ương của triều đình), Lê Nghi Dân (1439 – 1460) đã cho thành lập Lục khoa là cơ quan thanh tra ở sáu bộ, có trách nhiệm tâu hặc quan lại sai trái và các việc không đúng thể thức ở mỗi bộ (điều tra, phát hiện những việc làm sai trái của quan lại ở các bộ). Ở các địa phương, triều đình cho lập cơ quan Giám sát Ngự sử (Sát viện) để thường xuyên đi xem xét, kiểm tra công việc ở cấp đạo trở xuống. Mỗi đạo lại có Hiến sát sứ ty để thanh tra quan lại tránh sự nhũng nhiễu dân chúng, kịp thời phát giác và hạch tội các quan, làm rõ những điều uẩn khuất trong dân. Năm Quang Thuận 7 (1466), Lê Thánh Tông lập ra Lục tự là sáu cơ quan cao cấp trong triều đình, có nhiệm vụ thừa hành công việc của Lục bộ trao cho, trong đó có Đại lý tự là cơ quan giữ vai trò quan trọng về tư pháp, có nhiệm vụ xét lại những án nặng đã xử rồi (các án về tử tội hay tội lưu) rồi gửi kết quả cuộc điều tra qua bộ Hình để đệ tâu lên vua xin quyết định. Năm 1471, nhà vua cho đặt chức Hiến sát sứ và Hiến sát phó sứ ở các đạo. Đến năm 1475, cùng với đặt sáu viện (lục viện), Lê Thánh Tông cho đổi đặt 6 khoa dưới thời Lê Nghi Dân để thống nhất với Lục bộ.

Thời nhà Nguyễn, hệ thống cơ quan giám sát tiếp tục kế thừa, phát triển và hoàn thiện. Sau khi lên ngôi, cùng với thiết lập bộ máy trung ương tập quyền, vua Gia Long đặt ra các chức quan giám sát nhằm tăng cường kiểm tra, giám sát hệ thống quan lại cũng như các cơ quan hành chính trung ương. Năm 1804, cùng với việc định lại hệ thống quan chế, vua cho đặt các chức quan giám sát như: Tả hữu Đô ngự sử; Tả hữu phó Đô ngự sử [1, 429]. Năm Gia Long thứ 8 (1809), vua y cho đặt viên Ngự sử Đô sát ở Bắc Thành. Năm 1825, ông đặt thêm các chức quan giám sát như Cấp sự trung và Giám sát ngự sử của các đạo. Cùng với tiến hành cải cách bộ máy hành chính từ trung ương đến địa phương, Minh Mệnh cho thành lập Viện đô sát (1831-1832), đứng đầu là Tả/Hữu Đô ngự sử ngang hàm với Thượng thư, giúp việc có Tả/Hữu phó Đô ngự sử ngang hàm với Tham tri lục bộ. Ngoài bốn trưởng quan trên còn có sáu viên Cấp sự trung Lục khoa theo dõi hoạt động của 6 bộ tương ứng và 16 viên quan Giám sát Ngự sử ở mười sáu đạo cùng một số thuộc lại giúp công việc của từng bộ phận. Năm 1836, để tăng cường giám sát hoạt động của Tôn nhân phủ, Minh Mệnh cho đặt thêm 01 Lễ khoa Cấp sự trung và 01 Kinh kỳ đạo Giám sát ngự sử. Đến năm Minh Mệnh thứ 18 (1837), để tăng cường vai trò, trách nhiệm của các quan giám sát, nhà vua cho đặt thêm chức Chưởng ấn Cấp sự trung ở 6 Khoa, trật Tòng tứ phẩm.

So với thời Trần Lê, cơ quan giám sát thời Nguyễn đã hoàn thiện hơn rất nhiều (mặc dù tính chất của Đô sát viện vẫn là cơ quan giám sát như Ngự sử đài của các triều đại trước). Đô sát viện được thành lập trong đó cả Lục khoa và Giám sát ngự sử đều “thuộc vào viện Đô sát” và “do Viện đô sát thống lĩnh” trở thành cơ quan giám sát độc lập có quyền lực lớn nhất ở trung ương, chịu trách nhiệm trước Hoàng đế khi hội đồng với bộ Hình và Đại lý tự). Hoạt động của cơ quan đặc biệt này đã góp phần duy trì trật tự kỷ cương xã hội trong giai đoạn đầu của vương triều nhà Nguyễn. Ngoài ra, sự phối hợp giám sát, tư pháp và thanh tra chéo trong các ngành cũng là một sáng tạo của triều Nguyễn nhằm góp phần làm trong sạch và lành mạnh bộ máy chính quyền các cấp, các ngành.

6. Chống tham nhũng là việc của toàn dân

Trong thời quân chủ, ông cha ta luôn quan niệm phòng, chống tham nhũng là công việc của toàn dân nhằm huy động sự tham gia của nhân dân vào công cuộc phòng chống tệ nạn này. Để phát huy vai trò của người dân tham gia vào công việc của triều đình nói chung và phòng chống tham nhũng nói riêng, các triều đại đều có các hình thức, cơ chế khuyến khích động viên người dân tố cáo hành vi tham nhũng (cáo gian – tố cáo kẻ gian) gắn với chính sách bảo vệ không để người tố cáo bị trả thù, trù dập. Từ thời Lý, Lý Công Uẩn (974 – 1028) cho đặt Lầu Chuông trong thành Thăng Long để “dân chúng ai có việc kiện tụng oan uổng thì đánh chuông lên” và tiếng dân chuông vọng là biểu hiện rõ tư tưởng trọng dân của triều Lý.

Thời nhà Lê, Quốc triều hình luật cũng có những quy định rõ ràng về chế độ thưởng xứng đáng cho người dân tố cáo đúng sự thật các hành vi tham nhũng của quan lại các cấp: Người thu lúa thuế ruộng mà giấu giếm giảm bớt không đúng sự thực,… thì người cáo giác được thưởng, tùy theo việc nặng nhẹ (Điều 351); Tuyển chọn quân lính không đúng quy định thì người tố giác đúng sự thật có thưởng tùy theo việc lớn nhỏ (Điều 170). Vua Lê Thánh Tông còn cho đặt hòm thư tại sân đình để người dân có thể viết thư và bỏ vào đó để phản ánh hoặc cho phép dân được yết bảng nêu việc làm tốt, xấu của quan lại địa phương.

Thời nhà Nguyễn, vua Gia Long quy định nếu người coi kho và người bảo vệ biết được hành vi, thủ đoạn người lấy trộm và tố cáo thì được miễn tội. Nếu người bên ngoài phát hiện quả tang hành vi thì được thưởng gấp 10 lần số tang vật. Nếu chủ kho và lính bắt được quả tang thì thưởng gấp 5 lần.

Nhìn chung, các triều đại phong kiến đều có cơ chế khuyến khích, động viên người tố cáo hành vi tham nhũng và cho đây là việc làm cần thiết, mang lại những hiệu quả nhất định đối với việc xây dựng bộ máy phong kiến vững mạnh, thanh liêm, xây dựng niềm tin trong dân chúng. Các quy định của pháp luật phong kiến cũng đề cao chế định tố cáo tham nhũng cùng với các biện pháp bảo vệ người dân không bị trù dập khi tố cáo hành vi tham nhũng hoặc ngăn chặn sự trả thù của kẻ tham nhũng và vây cánh.

Trên đây là tư vấn của chúng tôi. Nếu còn vướng mắc, chưa rõ hoặc cần hỗ trợ pháp lý khác bạn vui lòng liên hệ bộ phận tư vấn pháp luật trực tuyến qua tổng đài điện thoại số: 1900.6162 để được giải đáp.

Rất mong nhận được sự hợp tác!

Trân trọng./.

Theo: Luật Minh Khuê - Sưu tầm & biên tập (https://luatminhkhue.vn/)

dctuan-Thanh tra huyện Nam Đông
Các tin khác
Xem tin theo ngày  
Thống kê truy cập
Tổng truy cập 6.945.332
Truy cập hiện tại 554