Tìm kiếm
 
 
 
 

Chung nhan Tin Nhiem Mang

 

CẢI CÁCH CHÍNH SÁCH BẢO HIỂM XÃ HỘI GIAI ĐOẠN 2011 - 2020
False 13360Ngày cập nhật 14/05/2021

Định hướng cải cách toàn diện chính sách bảo hiểm xã hội được đặt nền tảng từ Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội năm 1991 và Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992. Cải cách toàn diện chính sách bảo hiểm xã hội là một trong những nội dung quan trọng của chính sách xã hội nhằm góp phần thực hiện mục tiêu “cải biến căn bản tình trạng kinh tế - xã hội kém phát triển” và “thiết lập một hệ thống đồng bộ và đa dạng về bảo hiểm và trợ cấp xã hội”. Điều lệ bảo hiểm xã hội được ban hành kèm theo Nghị định số 12/CP ngày 26/01/1995 của Chính phủ (đối với lực lượng vũ trang là Điều lệ bảo hiểm xã hội ban hành kèm theo Nghị định số 45/CP ngày 15/7/1995 của Chính phủ) là một trong những văn bản quy phạm pháp luật đầu tiên thể chế hóa quan điểm của Đảng về chính sách bảo hiểm xã hội theo đường lối đổi mới.

1. Chính sách bảo hiểm xã hội được thể chế hóa trong Luật Bảo hiểm xã hội năm 2006
Từ năm 2007, quan điểm của Đảng về chính sách bảo hiểm xã hội chính thức được luật hóa bằng Luật Bảo hiểm xã hội năm 2006. Những cải cách nổi bật của chính sách bảo hiểm xã hội trong giai đoạn này là:
Thứ nhất, phạm vi, đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội tiếp tục được mở rộng đến cá nhân có thuê mướn, sử dụng và trả công cho người lao động theo hợp đồng lao động từ đủ 3 tháng trở lên; hạ sĩ quan, binh sĩ quân đội nhân dân và hạ sĩ quan, chiến sĩ công an nhân dân phục vụ có thời hạn; người làm việc có thời hạn ở nước ngoài mà trước đó đã đóng bảo hiểm xã hội bắt buộc.
Thứ hai, thiết lập hình thức bảo hiểm xã hội tự nguyện với hai chế độ hưu trí và tử tuất, áp dụng đối với các công dân Việt Nam trong độ tuổi lao động mà không thuộc đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc. Chính sách bảo hiểm xã hội tự nguyện ra đời từ ngày 01/01/2018 đã tạo điều kiện cho việc mở rộng độ bao phủ về chính sách bảo hiểm xã hội tới tất cả mọi người lao động trong độ tuổi lao động, mọi người dân trong độ tuổi nếu có nguyện vọng đều có thể tham gia bảo hiểm xã hội; đồng thời, chính sách bảo hiểm xã hội tự nguyện cũng góp phần tăng thêm cơ hội cho những người lao động có thời gian đóng ngắn khi đến tuổi nghỉ hưu thì có thể tiếp tục tham gia đóng góp để đủ điều kiện hưởng lương hưu hàng tháng thay vì hưởng bảo hiểm xã hội một lần. 
Thứ ba, hình thành chế độ bảo hiểm thất nghiệp với hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2009. Chính sách bảo hiểm thất nghiệp là một công cụ quản trị, điều tiết thị trường lao động nhằm nhanh chóng đưa người lao động bị thất nghiệp trở lại thị trường lao động, rút ngắn thời gian tuyển dụng của doanh nghiệp, giảm thiểu chi phí cơ hội của xã hội do chỗ việc làm trống không có người đảm nhận hoặc người lao động không được sử dụng vì không có việc làm hoặc không có kỹ năng cần thiết để đảm nhận vị trí việc làm. 
Thứ tư, xác định rõ cơ quan quản lý Nhà nước về bảo hiểm xã hội và bộ máy tổ chức thực hiện chính sách bảo hiểm xã hội. Bên cạnh đó, có quy định cơ cấu, thành phần, chức năng, nhiệm vụ của Hội đồng quản lý bảo hiểm xã hội. Quy định rõ nguyên tắc, các hình thức đầu tư quỹ bảo hiểm xã hội.
Thứ năm, quỹ bảo hiểm xã hội được hạch toán độc lập theo các quỹ thành phần theo hình thức tham gia bảo hiểm xã hội (bắt buộc, tự nguyện, thất nghiệp) và theo chế độ bảo hiểm xã hội (ốm đau và thai sản, tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp, thất nghiệp, hưu trí và tử tuất).
2. Chính sách bảo hiểm xã hội được hoàn thiện trong Luật Bảo hiểm xã hội năm 2014
Trên cơ sở định hướng của Nghị quyết số 21-NQ/TW ngày 22/11/2012, Luật Bảo hiểm xã hội được sửa đổi toàn diện vào năm 2014 với những nội dung nổi bật sau đây:
Một là, tiếp tục mở rộng đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc đối với người làm việc theo hợp đồng lao động có thời hạn từ đủ 01 tháng đến dưới 03 tháng; người lao động là công dân nước ngoài vào làm việc tại Việt Nam (từ ngày 01/01/2018); người đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng (kể cả đối với những người trước khi đi làm việc ở nước ngoài chưa tham gia bảo hiểm xã hội); người hoạt động không chuyên trách ở xã, phường, thị trấn; người lao động là công dân nước ngoài vào làm việc tại Việt Nam thuộc đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc từ ngày 01/01/2018. Áp dụng loại hình “Bảo hiểm hưu trí bổ sung” nhằm đa dạng sản phẩm dịch vụ bảo hiểm và đáp ứng nhu cầu của Nhân dân.
Hai là, quy định chính sách hỗ trợ tiền đóng bảo hiểm xã hội cho người lao động tham gia bảo hiểm xã hội tự nguyện  tùy theo điều kiện phát triển kinh tế - xã hội, khả năng ngân sách nhà nước từng thời kỳ nhằm “tăng nhanh diện bao phủ đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội”.
Ba là, tăng cường các biện pháp nhằm đảm bảo bền vững về tài chính của hệ thống bảo hiểm xã hội, đảm bảo sự bình đẳng trong tham gia và thụ hưởng bảo hiểm xã hội giữa các thành phần kinh tế, như: (i) Lộ trình thay đổi thời gian đóng bảo hiểm xã hội để được hưởng tỷ lệ lương hưu tối đa (Điều chỉnh thời gian đóng để đạt tỷ lệ hưởng lương hưu tối đa 75% từ 25 năm lên 30 năm đối với nữ; từ 30 năm lên 35 năm đối với nam theo lộ trình); (ii) Lộ trình điều chỉnh điều kiện về tuổi đời để hưởng lương hưu của những người bị suy giảm khả năng lao động từ 61% đến 80% (Điều chỉnh điều kiện về tuổi đời từ 50 tuổi lên 55 tuổi đối với nam; nữ từ 45 tuổi lên 50 tuổi theo lộ trình); (iii) Thay đổi tỷ lệ giảm trừ lương hưu đối với những người về hưu trước tuổi quy định (Điều chỉnh tỷ lệ giảm trừ đối với mỗi năm nghỉ hưu trước tuổi quy định từ 1%/năm lên 2%/năm); (iv) Lộ trình tiến tới tính bình quân cả quá trình đóng bảo hiểm xã hội đối với người lao động trong khu vực Nhà nước khi nghỉ hưu (Người lao động thuộc đối tượng thực hiện chế độ tiền lương do Nhà nước quy định có toàn bộ thời gian đóng bảo hiểm xã hội theo chế độ tiền lương này, nếu tham gia bảo hiểm xã hội từ 01/01/2025 trở đi thì tính bình quân của tiền lương tháng đóng bảo hiểm xã hội của toàn bộ thời gian thay vì chỉ tính một số năm cuối trước khi nghỉ hưu); (v) Điều chỉnh quy định điều kiện hưởng bảo hiểm xã hội một lần theo hướng chỉ giải quyết đối với người lao động khi đã hết tuổi lao động mà không đủ điều kiện hưởng lương hưu hoặc ra nước ngoài để định cư hợp pháp.
Bốn là, đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin, cải cách thủ tục hành chính nhằm công khai, minh bạch, tạo thuận tiện cho tham gia và thụ hưởng các chế độ bảo hiểm xã hội (quy định về định kỳ cung cấp thông tin về đóng bảo hiểm xã hội; người lao động được cấp và quản lý sổ bảo hiểm xã hội; quy định đến năm 2020, hoàn thành việc xây dựng và vận hành cơ sở dữ liệu điện tử về quản lý bảo hiểm xã hội trong phạm vi cả nước; sổ bảo hiểm xã hội sẽ được thay thế bằng thẻ bảo hiểm xã hội.
3. Kết quả thực hiện chính sách bảo hiểm xã hội
3.1. Diện bao phủ Bảo hiểm xã hội
Sau nhiều lần sửa đổi, bổ sung, diện bao phủ bảo hiểm xã hội ngày càng được mở rộng cả về đối tượng tham gia và các chế độ bảo hiểm xã hội, phù hợp với các tiêu chuẩn quốc tế và Việt Nam được đánh giá là một trong những quốc gia có độ bao phủ về chế độ bảo hiểm xã hội tốt nhất trong khu vực. Với việc thực hiện đồng bộ các chính sách bảo hiểm xã hội bắt buộc, bảo hiểm xã hội tự nguyện, diện bao phủ bảo hiểm xã hội từng bước được mở rộng và hoàn thiện theo hướng ngày một đảm bảo tốt hơn quyền tham gia và thụ hưởng BHXH của người lao động, cụ thể: 
Bảo hiểm xã hội bắt buộc: Năm 2007 (là năm đầu thực hiện Luật Bảo hiểm xã hội), số người tham gia là 6,96 triệu người với số thu trên 20 nghìn tỷ đồng. Đến ngày 31/12/2017, số người tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc là 13,59 triệu người (gấp 1,95 lần so 2007) với số thu trên 196 nghìn tỷ đồng (gấp 9,8 lần so 2007). 
Bảo hiểm xã hội tự nguyện: Số người tham gia bảo hiểm xã hội tự nguyện năm 2008 (năm đầu tiên thực hiện chính sách này) là 6.110 người với số thu 10,75 tỷ đồng. Đến ngày 31/12/2017, số người tham gia bảo hiểm xã hội tự nguyện là 291 nghìn người (gấp 47,6 lần so 2008) với số thu trên 1.207 tỷ đồng (gấp trên 112 lần so 2008). 
3.2. Tình hình giải quyết các chế độ bảo hiểm xã hội
Đối với chế độ ốm đau thai sản: Năm 2007, (là năm đầu tiên thực hiện Luật Bảo hiểm xã hội), có khoảng 2 triệu lượt người hưởng chế độ ốm đau; 300 nghìn lượt người hưởng chế độ thai sản; 750 lượt người hưởng dưỡng sức, phục hồi sức khỏe sau ốm đau, thai sản. Sau 11 năm thực hiện, đến năm 2017, có khoảng 7,5 triệu lượt người hưởng chế độ ốm đau; gần 1,8 triệu lượt người hưởng chế độ thai sản; 320 lượt người hưởng dưỡng sức, phục hồi sức khỏe.
Chế độ ốm đau, thai sản thực sự đi vào đời sống người lao động, là chỗ dựa tin cậy, vững chắc cho người lao động trước các rủi ro thông thường trong cuộc sống gắn với yếu tố sinh học. Mức hưởng chế độ ốm đau, thai sản cao, bảo đảm thay thế, bù đắp tốt thu nhập cho người lao động.
Đối với chế độ tai nạn lao động - bệnh nghề nghiệp: Chính sách, chế độ bảo hiểm tai nạn lao động - bệnh nghề nghiệp ngày càng được hoàn thiện và cơ bản đáp ứng được nhu cầu chi trả trợ cấp cho người bị tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp. Tính đến cuối năm 2017, có khoảng hơn 11 nghìn người hưởng trợ cấp tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp và trợ cấp phục vụ hàng tháng từ ngân sách Nhà nước (đối tượng được hưởng chế độ từ trước năm 1995); mức hưởng bình quân khoảng 727 nghìn đồng/người/tháng. Có khoảng 42 nghìn người hưởng trợ cấp tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp hàng tháng từ quỹ bảo hiểm tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp; mức hưởng bình quân khoảng 850 nghìn đồng/người/tháng. Có khoảng trên 1.000 người được hưởng trợ cấp phục vụ hàng tháng, mức hưởng bằng mức lương cơ sở (1,3 triệu đồng/người/tháng).
Đối với chế độ hưu trí và tử tuất: Số đối tượng được hưởng chế độ lương hưu và trợ cấp tuất hàng tháng ngày càng tăng: tính đến năm 2007, số người hưởng hưu trí hàng tháng là trên 1,6 triệu người; hưởng tuất hàng tháng trên 208 nghìn người). Năm 2017, số hưởng hưu trí hàng tháng trên 2,4 triệu người; hưởng tuất hàng tháng trên 287 nghìn người.
Đánh giá chung về kết quả đạt được và hạn chế, yếu kém
Kết quả đạt được: Chính sách bảo hiểm xã hội đã từng bước khẳng định và phát huy vai trò trụ cột chính của hệ thống an sinh xã hội của đất nước, là sự bảo đảm thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập của người lao động khi họ bị giảm hoặc mất thu nhập do ốm đau, thai sản, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, mất việc làm, hết tuổi lao động hoặc chết. 
Diện bao phủ bảo hiểm xã hội bắt buộc theo quy định của Luật Bảo hiểm xã hội đã được mở rộng đến tất cả người lao động làm việc theo chế độ hợp đồng lao động, kể cả người Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài và người nước ngoài vào làm việc tại Việt Nam; người lao động làm việc không có hợp đồng lao động có thể tham gia bảo hiểm xã hội tự nguyện. Số đối tượng tham gia, đối tượng được hưởng các chế độ bảo hiểm xã hội ngày càng gia tăng, mức hưởng cũng tăng nhanh trên cơ sở thực hiện đồng bộ các chính sách bảo hiểm xã hội bắt buộc, bảo hiểm xã hội tự nguyện. Các chế độ bảo hiểm xã hội từng bước được mở rộng và hoàn thiện theo hướng bao phủ đầy đủ các chế độ bảo hiểm xã hội theo thông lệ quốc tế, đảm bảo tốt hơn quyền thụ hưởng các chế độ bảo hiểm xã hội của người lao động. Chế độ bảo hiểm xã hội bắt buộc và bảo hiểm xã hội hưu trí, tử tuất tự nguyện đã hướng tới cả người lao động có quan hệ lao động và người lao động không có quan hệ lao động, cả người làm việc trong khu vực chính thức và khu vực phi kết cấu.
 Hạn chế yếu kém: Phát triển đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội còn chậm, dưới mức tiềm năng: Số người tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc đến hết năm 2017 mới chỉ chiếm gần 29% lực lượng lao động trong độ tuổi. Sau 10 năm thực hiện bảo hiểm xã hội tự nguyện, số người tham gia mới chỉ đạt khoảng 291 nghìn người, chiếm 0,62% lực lượng lao động trong độ tuổi. 
Tình trạng trốn đóng, nợ đóng vẫn còn diễn ra ở nhiều doanh nghiệp, nhiều địa phương, chậm được khắc phục. Tình trạng trốn đóng, nợ đóng bảo hiểm xã hội còn khá lớn, ảnh hưởng đến quyền lợi của nhiều người lao động, tổng số nợ bảo hiểm xã hội bắt buộc có tính lãi đến ngày 31/12/2017 là 5.737 tỷ đồng (chiếm 2,9% số phải thu bảo hiểm xã hội). Vẫn còn trên 380 nghìn doanh nghiệp đang hoạt động chưa tham gia bảo hiểm xã hội cho người lao động, vẫn còn trên 3,4 triệu người thuộc diện tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc nhưng chưa được tham gia. 
Công tác giải quyết, chi trả các chế độ bảo hiểm xã hội mặc dù đã từng bước được cải thiện hơn nhưng vẫn cần tiếp tục hoàn thiện. Việc giải quyết các chế độ bảo hiểm xã hội như: ốm đau, hưu trí, thai sản, tử tuất… còn chậm một phần do cơ quan bảo hiểm xã hội thẩm tra, xem xét mất nhiều thời gian do chưa kết nối liên thông được cơ sở dữ liệu trên phạm vi toàn quốc; chưa thực hiện rộng rãi giao dịch điện tử trong việc giải quyết các chế độ bảo hiểm xã hội. 
Tỷ lệ lượt người hưởng chế độ ốm đau, thai sản trên số người tham gia bảo hiểm xã hội tăng gấp 2 - 3 lần sau 10 năm; số chi từ quỹ ốm đau và thai sản tăng nhanh hơn số thu; nếu không có các giải pháp kiểm soát lạm dụng, trục lợi sẽ có nguy cơ tạo gánh nặng cho ngân sách Nhà nước.
Đã xuất hiện tình trạng lợi dụng quy định của chính sách để hưởng lợi; tình trạng trục lợi quỹ đã xuất hiện những biểu hiện tinh vi như: Giả mạo chứng từ hưởng chế độ ốm đau, thai sản; mua bán, cấp khống giấy tờ, hồ sơ hưởng chế độ; thành lập các công ty nhưng không hoạt động mà chỉ nhằm mục đích trục lợi quỹ; có trường hợp mới đăng ký tham gia bảo hiểm xã hội đã hưởng ốm đau nhiều ngày, sau đó không tham gia bảo hiểm xã hội nữa.
4. Cải cách chính sách bảo hiểm xã hội từ năm 2018
4.1. Yêu cầu của việc cải cách chính sách bảo hiểm xã hội
Việt Nam đang ở trong giai đoạn dân số vàng nhưng cũng đã bước sang giai đoạn già hóa dân số, tốc độ già hóa dân số diễn ra khá nhanh và được coi là nhanh nhất nếu so với các nước. Già hóa dân số tác động trực tiếp đến thị trường lao động, cả về quy mô, cơ cấu, loại hình việc làm, tác động trực tiếp đến sự bền vững của các hệ thống hưu trí. Tuổi thọ gia tăng cũng đặt hệ thống chính sách bảo hiểm xã hội trước những yêu cầu cần phải cải cách mà trọng tâm là tính đến quan hệ giữa thời gian tham gia bảo hiểm xã hội và thời gian thụ hưởng chính sách bảo hiểm xã hội. 
Bối cảnh cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đang là xu thế lớn trên toàn cầu, với động lực là sự phát triển về khoa học - công nghệ. Trong quá trình hội nhập sâu rộng với thế giới, Việt Nam sẽ được hưởng lợi nhiều nhưng cũng chịu tác động sâu sắc khi cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư thành hiện thực. Tác động của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư làm thay đổi lớn về quan hệ lao động. Xu hướng tự tạo việc làm và chuyển đổi quan hệ lao động sang quan hệ kinh tế không có hợp đồng lao động (Uber, Grab, các kỹ sư tin học lập trình…) sẽ gia tăng. Đây là một thách thức lớn đối với bảo hiểm xã hội trong cách thức tiếp cận và quản lý đối tượng tham gia và thụ hưởng, trong thực hiện mở rộng diện bao phủ. Cùng với đó là quá trình dịch chuyển lao động quốc tế, gia tăng số lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài và số người nước ngoài vào Việt Nam làm việc, đòi hỏi sự hoà nhập về chính sách xã hội, đảm bảo đáp ứng các tiêu chuẩn chung về an sinh xã hội. 
Để đảm bảo các mục tiêu về an sinh xã hội, cần có những cải cách trong thiết kế hệ thống và tổ chức thực hiện chính sách bảo hiểm xã hội, thực sự là trụ cột chính của chính sách an sinh xã hội; góp phần thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, đảm bảo mọi người lao động đều được tiếp cận và thụ hưởng quyền an sinh xã hội, chia sẻ thành quả phát triển kinh tế xã hội; tuân thủ nguyên tắc công bằng, bền vững tài chính và chia sẻ rủi ro của hệ thống bảo hiểm xã hội là vấn đề cấp thiết trước mắt cũng như lâu dài. Vì vậy, tại Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương Khóa XII đã ban hành Nghị quyết số 28-NQ/TW về cải cách chính sách bảo hiểm xã hội với những mục tiêu và định hướng cải cách như sau:
Đối với mục tiêu tổng quát
Cải cách chính sách bảo hiểm xã hội để bảo hiểm xã hội thực sự là một trụ cột chính của hệ thống an sinh xã hội, từng bước mở rộng vững chắc diện bao phủ bảo hiểm xã hội, hướng tới mục tiêu bảo hiểm xã hội toàn dân. Phát triển hệ thống bảo hiểm xã hội linh hoạt, đa dạng, đa tầng, hiện đại và hội nhập quốc tế theo nguyên tắc đóng - hưởng, công bằng, bình đẳng, chia sẻ và bền vững. Nâng cao năng lực, hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước và phát triển hệ thống thực hiện chính sách bảo hiểm xã hội tinh gọn, chuyên nghiệp, hiện đại, tin cậy và minh bạch.
Đối với mục tiêu cụ thể
Giai đoạn đến năm 2021: Phấn đấu đạt khoảng 35% lực lượng lao động trong độ tuổi tham gia bảo hiểm xã hội, trong đó nông dân và lao động khu vực phi chính thức tham gia bảo hiểm xã hội tự nguyện chiếm khoảng 1% lực lượng lao động trong độ tuổi; khoảng 28% lực lượng lao động trong độ tuổi tham gia bảo hiểm thất nghiệp; có khoảng 45% số người sau độ tuổi nghỉ hưu được hưởng lương hưu, bảo hiểm xã hội hằng tháng và trợ cấp hưu trí xã hội; tỉ lệ giao dịch điện tử đạt 100%; thực hiện dịch vụ công trực tuyến mức độ 4; giảm số giờ giao dịch giữa cơ quan bảo hiểm xã hội với doanh nghiệp đạt mức ASEAN 4; chỉ số đánh giá mức độ hài lòng của người tham gia bảo hiểm xã hội đạt mức 80%.
Giai đoạn đến năm 2025: Phấn đấu đạt khoảng 45% lực lượng lao động trong độ tuổi tham gia bảo hiểm xã hội, trong đó nông dân và lao động khu vực phi chính thức tham gia bảo hiểm xã hội tự nguyện chiếm khoảng 2,5% lực lượng lao động trong độ tuổi; khoảng 35% lực lượng lao động trong độ tuổi tham gia bảo hiểm thất nghiệp; có khoảng 55% số người sau độ tuổi nghỉ hưu được hưởng lương hưu, bảo hiểm xã hội hằng tháng và trợ cấp hưu trí xã hội; chỉ số đánh giá mức độ hài lòng của người tham gia bảo hiểm xã hội đạt mức 85%.
Giai đoạn đến năm 2030: Phấn đấu đạt khoảng 60% lực lượng lao động trong độ tuổi tham gia bảo hiểm xã hội, trong đó nông dân và lao động khu vực phi chính thức tham gia bảo hiểm xã hội tự nguyện chiếm khoảng 5% lực lượng lao động trong độ tuổi; khoảng 45% lực lượng lao động trong độ tuổi tham gia bảo hiểm thất nghiệp; khoảng 60% số người sau độ tuổi nghỉ hưu được hưởng lương hưu, bảo hiểm xã hội hằng tháng và trợ cấp hưu trí xã hội; chỉ số đánh giá mức độ hài lòng của người tham gia bảo hiểm xã hội đạt mức 90%.
4.2. Nội dung cải cách
Thực hiện đồng bộ các nội dung cải cách để mở rộng diện bao phủ bảo hiểm xã hội, hướng tới mục tiêu bảo hiểm xã hội toàn dân; bảo đảm cân đối Quỹ bảo hiểm xã hội trong dài hạn, điều chỉnh lương hưu độc lập tương đối trong mối tương quan với tiền lương của người đang làm việc, thay đổi cách thức điều chỉnh lương hưu theo hướng chia sẻ.
Thứ nhất, xây dựng hệ thống bảo hiểm xã hội đa tầng, trợ cấp hưu trí xã hội: Ngân sách nhà nước cung cấp một khoản trợ cấp cho người cao tuổi không có lương hưu, hoặc bảo hiểm xã hội hằng tháng. Có chính sách huy động các nguồn lực xã hội đóng thêm để các đối tượng này có mức hưởng cao hơn; điều chỉnh giảm dần độ tuổi hưởng trợ cấp hưu trí xã hội phù hợp với khả năng của ngân sách.
Bảo hiểm xã hội cơ bản, bao gồm bảo hiểm xã hội bắt buộc và bảo hiểm xã hội tự nguyện: Bảo hiểm xã hội bắt buộc (với các chế độ hưu trí, tử tuất, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, ốm đau, thai sản, thất nghiệp) dựa trên đóng góp của người lao động và người sử dụng lao động. Bảo hiểm xã hội tự nguyện (với các chế độ hưu trí, tử tuất hiện nay, từng bước mở rộng sang các chế độ khác) dựa trên đóng góp của người lao động không có quan hệ lao động; có sự hỗ trợ phù hợp từ ngân sách nhà nước cho nông dân, người nghèo, người có thu nhập thấp, lao động khu vực phi chính thức để mở rộng diện bao phủ bảo hiểm xã hội; nâng cao ý thức, trách nhiệm của người lao động đối với việc tự bảo đảm an sinh cho bản thân. Mở rộng diện bao phủ bảo hiểm xã hội theo lộ trình điều chỉnh tăng tuổi nghỉ hưu phù hợp từng thời kỳ.
Bảo hiểm hưu trí bổ sung là chế độ hưu trí tự nguyện theo nguyên tắc thị trường, tạo điều kiện cho người sử dụng lao động và người lao động có thêm sự lựa chọn tham gia đóng góp để được hưởng mức lương hưu cao hơn.
Thứ hai, sửa đổi quy định về điều kiện thời gian tham gia bảo hiểm xã hội tối thiểu để hưởng chế độ hưu trí theo hướng linh hoạt đồng thời với việc điều chỉnh cách tính lương hưu theo nguyên tắc đóng - hưởng, công bằng, bình đẳng, chia sẻ và bền vững. Mở rộng đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc sang các nhóm đối tượng khác.
Sửa đổi điều kiện hưởng chế độ hưu trí theo hướng giảm dần số năm đóng bảo hiểm xã hội tối thiểu để được hưởng chế độ hưu trí từ 20 năm xuống 15 năm, hướng tới còn 10 năm với mức hưởng được tính toán phù hợp nhằm tạo điều kiện cho người lao động cao tuổi, có số năm tham gia bảo hiểm xã hội thấp được tiếp cận và thụ hưởng quyền lợi bảo hiểm xã hội. Tiếp tục rà soát, sửa đổi, hoàn thiện cách tính lương hưu, bảo đảm công bằng giữa nam và nữ, giữa khu vực nhà nước và khu vực ngoài nhà nước, kết hợp hài hoà các nguyên tắc đóng - hưởng và chia sẻ giữa người có mức lương cao với người có mức lương thấp để thu hẹp khoảng cách về thu nhập trong các đối tượng hưởng chế độ hưu trí. Rà soát, mở rộng đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc đối với các nhóm chủ hộ kinh doanh, người quản lý doanh nghiệp, người quản lý, điều hành hợp tác xã không hưởng tiền lương, người lao động làm việc theo chế độ linh hoạt.
Thứ ba, tăng cường sự liên kết, hỗ trợ giữa các chính sách bảo hiểm xã hội cũng như tính linh hoạt của các chính sách nhằm đạt được mục tiêu mở rộng diện bao phủ. Nghiên cứu sửa đổi, hoàn thiện chính sách bảo hiểm thất nghiệp, chú trọng không chỉ các giải pháp xử lý hậu quả thông qua việc chi trả trợ cấp thất nghiệp, đào tạo đáp ứng yêu cầu của công việc mới, giới thiệu việc làm mà cần chú ý thoả đáng đến các giải pháp phòng ngừa, giảm thiểu tình trạng thất nghiệp thông qua việc hỗ trợ doanh nghiệp duy trì sản xuất kinh doanh, bảo đảm việc làm cho người lao động. Nghiên cứu thiết kế các gói bảo hiểm xã hội tự nguyện ngắn hạn linh hoạt để người lao động có nhiều sự lựa chọn tham gia và thụ hưởng. Mở rộng các chế độ bảo hiểm xã hội tự nguyện, tạo điều kiện chuyển đổi thuận lợi giữa bảo hiểm xã hội tự nguyện và bảo hiểm xã hội bắt buộc, hướng tới chính sách bảo hiểm xã hội bắt buộc đối với toàn bộ người lao động có việc làm, có thu nhập và tiền lương khi có đủ điều kiện cần thiết.
Thứ tư, cải cách trong xây dựng và tổ chức thực hiện chính sách nhằm củng cố niềm tin, tăng mức độ hài lòng của người tham gia vào hệ thống bảo hiểm xã hội. Xây dựng chính sách bảo hiểm xã hội bảo đảm sự công bằng, không phân biệt đối xử giữa các nhóm đối tượng tham gia; tăng cường sự chia sẻ giữa các nhóm đối tượng thụ hưởng nhằm khắc phục bất hợp lý, chênh lệch quá lớn về mức hưởng. Đẩy mạnh cải cách hành chính, ứng dụng công nghệ thông tin, đơn giản hoá các quy trình, thủ tục đăng ký, đóng, hưởng bảo hiểm xã hội, nâng cao chất lượng cung cấp dịch vụ bảo hiểm xã hội theo hướng thân thiện, công khai, minh bạch, tạo thuận lợi cho người dân và doanh nghiệp.
Thứ năm, đẩy nhanh quá trình gia tăng số lao động tham gia bảo hiểm xã hội trong khu vực phi chính thức. Đẩy mạnh phát triển doanh nghiệp theo tinh thần Nghị quyết số 10-NQ/TW ngày 03/6/2017 của Ban Chấp hành Trung ương khoá XII về phát triển kinh tế tư nhân trở thành một động lực quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Nghiên cứu thiết kế các gói bảo hiểm xã hội ngắn hạn với mức đóng, mức hưởng, phương thức giao dịch phù hợp với người lao động trong khu vực phi chính thức.
Thứ sáu, sửa đổi, khắc phục các bất hợp lý về chế độ bảo hiểm hưu trí hiện nay theo hướng linh hoạt hơn về điều kiện hưởng chế độ hưu trí, chặt chẽ hơn trong quy định hưởng chế độ bảo hiểm xã hội một lần, tăng tuổi nghỉ hưu bình quân thực tế của người lao động.
Có quy định phù hợp để giảm tình trạng hưởng bảo hiểm xã hội một lần theo hướng tăng quyền lợi nếu bảo lưu thời gian tham gia bảo hiểm xã hội để hưởng chế độ hưu trí, giảm quyền lợi nếu hưởng bảo hiểm xã hội một lần. Sửa đổi các quy định để khuyến khích người lao động tham gia bảo hiểm xã hội thời gian dài hơn, từng bước tăng tuổi nghỉ hưu bình quân, tăng tỉ lệ giảm trừ tiền lương hưu đối với người lao động muốn nhận chế độ hưu trí sớm.
Thứ bảy, thực hiện điều chỉnh tăng tuổi nghỉ hưu theo lộ trình. Điều chỉnh tuổi nghỉ hưu cần có tầm nhìn dài hạn và có lộ trình phù hợp với tăng trưởng kinh tế, giải quyết việc làm, thất nghiệp; không gây tác động tiêu cực đến thị trường lao động; bảo đảm số lượng, chất lượng và cơ cấu dân số; bình đẳng giới; cân đối Quỹ bảo hiểm xã hội trong dài hạn; xu hướng già hoá dân số; tính chất, loại hình lao động và giữa các ngành nghề, lĩnh vực.
Từ năm 2021, thực hiện điều chỉnh tuổi nghỉ hưu theo mục tiêu tăng tuổi nghỉ hưu chung, thu hẹp dần khoảng cách về giới trong quy định tuổi nghỉ hưu; đối với những ngành nghề đặc biệt, người lao động được quyền nghỉ hưu sớm, hoặc muộn hơn 5 tuổi so với tuổi nghỉ hưu chung.
Thứ tám, sửa đổi các quy định về mức đóng, căn cứ đóng bảo hiểm xã hội để đạt mục tiêu mở rộng diện bao phủ bảo hiểm xã hội. Sửa đổi quy định về căn cứ đóng bảo hiểm xã hội của khu vực doanh nghiệp ít nhất bằng khoảng 70% tổng tiền lương và các khoản thu nhập khác có tính chất lương của người lao động để khắc phục tình trạng trốn đóng, đóng không đủ bảo hiểm xã hội, ảnh hưởng đến khả năng cân đối Quỹ bảo hiểm xã hội và quyền lợi của người lao động. Nghiên cứu điều chỉnh tỷ lệ đóng vào Quỹ bảo hiểm xã hội theo hướng hài hoà quyền lợi giữa người sử dụng lao động và người lao động.
Thứ chín, điều chỉnh tỉ lệ tích luỹ để đạt tỉ lệ hưởng lương hưu tối đa phù hợp với thông lệ quốc tế. Sửa đổi cách tính lương hưu theo hướng giảm tỉ lệ tích luỹ, bảo đảm khả năng cân đối quỹ hưu trí trong dài hạn, phù hợp với thông lệ quốc tế. Có lộ trình điều chỉnh kéo dài thời gian tham gia bảo hiểm xã hội thực tế, bảo vệ quyền lợi của người hưởng chế độ hưu trí theo nguyên tắc đóng - hưởng, công bằng và chia sẻ phù hợp.
Thứ mười, đa dạng hóa danh mục, cơ cấu đầu tư Quỹ bảo hiểm xã hội theo nguyên tắc an toàn, bền vững, hiệu quả. Tăng cường công tác đánh giá, dự báo tài chính, hiệu quả đầu tư các quỹ bảo hiểm xã hội; đa dạng hóa danh mục, cơ cấu đầu tư Quỹ bảo hiểm xã hội theo nguyên tắc an toàn, bền vững và hiệu quả; ưu tiên đầu tư vào trái phiếu Chính phủ, nhất là trái phiếu Chính phủ dài hạn; nghiên cứu từng bước mở rộng sang các lĩnh vực có khả năng sinh lời cao, từng bước và có lộ trình đầu tư một phần tiền nhàn rỗi của Quỹ thông qua ủy thác đầu tư tại thị trường trong nước và quốc tế bảo đảm an toàn, bền vững.
Thứ mười một, thực hiện điều chỉnh lương hưu độc lập tương đối trong mối tương quan với tiền lương của người đang làm việc, thay đổi cách thức điều chỉnh lương hưu theo hướng chia sẻ. Thực hiện điều chỉnh trợ cấp hưu trí xã hội theo khả năng cân đối của ngân sách nhà nước; lương hưu cơ bản được điều chỉnh chủ yếu dựa trên cơ sở mức tăng của chỉ số giá tiêu dùng, khả năng của Quỹ bảo hiểm xã hội và ngân sách nhà nước; quan tâm điều chỉnh thỏa đáng đối với nhóm đối tượng có mức lương hưu thấp và nghỉ hưu trước năm 1995 nhằm thu hẹp khoảng cách chênh lệch lương hưu giữa người nghỉ hưu ở các thời kỳ.
5. Quá trình thể chế hóa quan điểm của Đảng tại Nghị quyết số 28-NQ/TW 
5.1. Thể chế hóa Nghị quyết số 28-NQ/TW vào các văn bản pháp luật
Trên cơ sở nội dung cải cách chính sách bảo hiểm xã hội trong giai đoạn 2018 - 2020 một số nội dung cải cách chính sách bảo hiểm xã hội đã được thể chế hóa, cụ thể: 
Nhằm cụ thể hóa quy định của Luật Bảo hiểm xã hội và thể chế hóa nội dung: “Rà soát, sửa đổi các quy định về người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài, người nước ngoài vào làm việc tại Việt Nam tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc, gắn với việc đẩy mạnh đàm phán, ký kết hiệp định song phương về bảo hiểm xã hội”, Chính phủ ban hành Nghị định số 143/2018/NĐ-CP ngày 15/10/2018 quy định chi tiết Luật Bảo hiểm xã hội và Luật An toàn, vệ sinh lao động về bảo hiểm xã hội bắt buộc đối với người lao động là công dân nước ngoài làm việc tại Việt Nam. Theo đó, người lao động là công dân nước ngoài làm việc tại Việt Nam thuộc đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc khi có giấy phép lao động hoặc chứng chỉ hành nghề hoặc giấy phép hành nghề do cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam cấp và có hợp đồng lao động không xác định thời hạn, hợp đồng lao động xác định thời hạn từ đủ 01 năm trở lên với người sử dụng lao động tại Việt Nam, ngoại trừ trường hợp người lao động di chuyển trong nội bộ doanh nghiệp và người lao động đã đủ tuổi nghỉ hưu.
Những nội dung tại Nghị quyết số 28-NQ/TW về tuổi nghỉ hưu: “Từ năm 2021, thực hiện điều chỉnh tuổi nghỉ hưu theo mục tiêu tăng tuổi nghỉ hưu chung, thu hẹp dần khoảng cách về giới trong quy định tuổi nghỉ hưu; đối với những ngành nghề đặc biệt, người lao động được quyền nghỉ hưu sớm, hoặc muộn hơn 5 tuổi so với tuổi nghỉ hưu chung”và tiền lương làm căn cứ đóng bảo hiểm xã hội: “Sửa đổi quy định về căn cứ đóng bảo hiểm xã hội của khu vực doanh nghiệp ít nhất bằng khoảng 70% tổng tiền lương và các khoản thu nhập khác có tính chất lương của người lao động” đã được thể chế hóa trong Bộ luật Lao động năm 2019.
5.2. Kết quả thực hiện một số mục tiêu tại Nghị quyết số 28-NQ/TW
Tình hình tham gia bảo hiểm xã hội: Theo Nghị quyết số 28-NQ/TW thì Trung ương đặt ra mục tiêu đến năm 2021, phấn đấu có 35% lực lượng lao động trong độ tuổi tham gia bảo hiểm xã hội trong đó có 1% lực lượng lao động trong độ tuổi tham gia bảo hiểm xã hội tự nguyện. 
Thực hiện mục tiêu đã giao, Chính phủ đã ban hành Nghị quyết số 102/NQ-CP ngày 03/8/2018 về việc giao chỉ tiêu phát triển đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội cho các địa phương. Theo đó, các địa phương căn cứ các nguyên tắc, chỉ tiêu, tiêu chí và phương pháp xây dựng chỉ tiêu của Nghị quyết để xây dựng kế hoạch, chỉ tiêu cho từng loại đối tượng, từng thời gian, từ đó xây dựng các giải pháp cụ thể, có tính thống nhất, đồng bộ, hiệu quả, phù hợp với tình hình thực tiễn của địa phương.
Trên cơ sở đó trong giai đoạn 2018 - 2019 các địa phương đã thực hiện các giải pháp nhằm thực hiện mở rộng đối tượng tham gia và hoàn thành vượt mức các chỉ tiêu kế hoạch đặt ra trong các tỉnh và cả nước, cụ thể: 
Tính đến cuối năm 2019, có 15.773.928 người tham gia bảo hiểm xã hội bằng 32,2% so với lực lượng lao động trong độ tuổi, trong đó: Số người tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc là 15.199.985 người bằng 31,1%; Số người tham gia bảo hiểm xã hội tự nguyện là 573.943 người bằng 1,2%.
Tỷ lệ tham gia bảo hiểm xã hội tự nguyện đã hoàn thành chỉ tiêu Trung ương giao trước 02 năm (năm 2021, phấn đấu tỷ lệ nông dân và lao động phi chính thức tham gia bảo hiểm xã hội tự nguyện là 1%).
Trong năm 2019 tổng số tiền thu bảo hiểm xã hội bắt buộc là 243 nghìn tỷ tăng 24,5% so với năm 2017. 
Trên cơ sở thực hiện các giải pháp hạn chế chậm đóng và thu hồi tiền đóng bảo hiểm xã hội thì tình trạng chậm đóng bảo hiểm xã hội trong năm 2019 giảm so với năm 2017 khoảng 358 tỷ đồng.
Chính sách bảo hiểm xã hội ra đời và đã từng bước đi vào đời sống của người lao động nhằm bù đắp một phần thu nhập của người lao động khi họ bị giảm hoặc mất thu nhập do ốm đau, thai sản, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp; nhằm giúp người lao động nói chung và người dân nói riêng có khoản thu nhập hằng tháng khi hết tuổi lao động hoặc chết; qua đó đóng vai trò là trụ cột chính của hệ thống an sinh xã hội.
Với mục tiêu đảm bảo an sinh xã hội cho người lao động, người dân thì chính sách bảo hiểm xã hội ở nước ta ngày càng được hoàn thiện trên cơ sở thể chế hóa quan điểm chỉ đạo của Đảng và Chính phủ, cụ thể: độ bao phủ của chính sách bảo hiểm xã hội ngày càng được mở rộng, quyền lợi bảo hiểm xã hội của người lao động và người dân được đảm bảo dựa trên nguyên tắc đóng - hưởng, Nhà nước ngày càng đóng vai trò quan trọng trong chính sách hỗ trợ người dân tham gia bảo hiểm xã hội tự nguyện; ứng dụng công nghệ thông tin trong việc tổ chức thực hiện đã tạo thuận lợi cho người lao động trong tham gia và thụ hưởng chính sách bảo hiểm xã hội. 
Trong giai đoạn 2020 - 2030, các nội dung cải cách chính sách bảo hiểm xã hội tại Nghị quyết số 28-NQ/TW ngày 23/5/2018 được Hội nghị lần thứ bảy Ban chấp hành Trung ương Khóa XII thông qua sẽ được thể chế hóa vào các văn bản quy phạm pháp luật, trên cơ sở quan điểm: bảo hiểm xã hội là một trụ cột chính của hệ thống an sinh xã hội trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, góp phần quan trọng thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội, bảo đảm ổn định chính trị - xã hội, đời sống Nhân dân, phát triển bền vững đất nước (Nguồn: Báo cáo chuyên đề của Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội tổng kết Chương trình tổng thể cải cách hành chính nhà nước giai đoạn 2011 - 2020 của Ban Chỉ đạo cải cách hành chính của Chính phủ).

Theo: http://caicachhanhchinh.gov.vn/

 
dctuan-Thanh tra huyện Nam Đông
Xem tin theo ngày  
Thống kê truy cập
Tổng truy cập 6.945.332
Truy cập hiện tại 4.787