Tìm kiếm
 
 
 
 

Chung nhan Tin Nhiem Mang

 

Một số đề xuất mới liên quan đến cán bộ, công chức, viên chức
False 17135Ngày cập nhật 18/03/2020
Triển khai Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Cán bộ, công chức và Luật Viên chức (Luật số 52/2019/QH14), Bộ Nội vụ đã xây dựng các dự thảo Nghị định của Chính phủ hướng dẫn thi hành một số điều của Luật về: tuyển dụng, sử dụng và quản lý công chức; tiêu chuẩn chức danh công chức lãnh đạo, quản lý trong cơ quan hành chính nhà nước; xử lý kỷ luật cán bộ, công chức, viên chức.

* Quy định về tuyển dụng, sử dụng và quản lý công chức
Theo dự thảo Nghị định, không tiếp tục quy định chế độ công chức tại các đơn vị sự nghiệp công lập như quy định tại Khoản 2 Điều 4 và điểm c Khoản 1 Điều 32 Luật Cán bộ, công chức năm 2008. Cụ thể, công chức thuộc đối tượng áp dụng tại dự thảo Nghị định là “Công dân Việt Nam, được tuyển dụng, bổ nhiệm vào ngạch, chức vụ, chức danh tương ứng với vị trí việc làm trong cơ quan của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội ở Trung ương, cấp tỉnh, cấp huyện; trong cơ quan, đơn vị thuộc Quân đội nhân dân mà không phải là sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp, công nhân quốc phòng; trong cơ quan, đơn vị thuộc Công an nhân dân mà không phải là sĩ quan, hạ sĩ quan phục vụ theo chế độ chuyên nghiệp, công nhân công an, trong biên chế và hưởng lương từ ngân sách nhà nước” (Khoản 1 Điều 1 Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Cán bộ, công chức và Luật Viên chức năm 2019). 
Đối với khung chính sách áp dụng đối với người có tài năng trong hoạt động công vụ, dự thảo Nghị định dành riêng Chương III với 2 Điều (Điều 28. Trách nhiệm rà soát, phát hiện người có tài năng trong hoạt động công vụ và Điều 29. Chính sách về đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng, quy hoạch, bổ nhiệm, tiền lương, phúc lợi) quy định, cụ thể:
Về chính sách đào tạo, bồi dưỡng, được cử tham gia các chương trình bồi dưỡng kiến thức tổng quan, khoa học, cơ bản với ngành, nghề, lĩnh vực phù hợp với định hướng phát triển; được cử tham gia các khóa đào tạo tập trung trong nước, quốc tế đối với các chương trình phù hợp với ngành, lĩnh vực phù hợp với định hướng phát triển và chế độ đào tạo, bồi dưỡng khác phù hợp với đặc thù ngành, lĩnh vực, địa phương do người đứng đầu cơ quan có thẩm quyền tuyển dụng công chức quyết định.
Chính sách về môi trường làm việc, trang thiết bị làm việc, được tham gia dự và phát biểu ý kiến tại các cuộc họp có liên quan đến công tác chuyên môn của Ban lãnh đạo cơ quan, tổ chức, đơn vị đang công tác; được phân công, bố trí người (hoặc một nhóm) hỗ trợ thực hiện công việc, nhiệm vụ cụ thể. Người (hoặc nhóm) được phân công có trách nhiệm thực hiện các công việc theo yêu cầu của người có tài năng trong hoạt động công vụ; được đầu tư trang thiết bị, phương tiện làm việc cần thiết về máy móc, thiết bị, thông tin, tài liệu, phòng làm việc để triển khai thực hiện tốt nhiệm vụ được giao; trường hợp cần thiết sẽ được đầu tư nguồn lực và các trang thiết bị đặc biệt để triển khai các chương trình, đề án, đề tài, công trình nghiên cứu khoa học đã được cấp có thẩm quyền đánh giá là khả thi, mang lại hiệu quả kinh tế - xã hội cao; được người đứng đầu cơ quan sử dụng công chức bố trí, sắp xếp nhân lực, vật lực phục vụ trong thời gian thực hiện một nhiệm vụ cụ thể, kể cả ngoài thời gian làm việc; được tạo điều kiện để tiếp cận với các văn bản của Đảng, Nhà nước, kể cả văn bản mật, để khai thác thông tin phục vụ hoạt động chuyên môn và nghiên cứu khoa học.
Về chính sách quy hoạch, bổ nhiệm, được xem xét, lựa chọn và đặc cách quy hoạch và các chức danh lãnh đạo, quản lý hoặc chuyên gia đầu ngành của lĩnh vực công tác; được tập trung bồi dưỡng theo hướng trở thành nhà khoa học, chuyên gia đầu ngành cho các lĩnh vực; được giao chủ trì các đề tài, công trình nghiên cứu khoa học từ cấp tỉnh trở lên; sau 3 năm công tác, nếu đáp ứng được các tiêu chuẩn, điều kiện của ngạch cao hơn trong cùng ngành chuyên môn với ngạch hiện giữ thì được xem xét đặc cách cử tham dự kỳ thi nâng ngạch lên chuyên viên chính hoặc tương đương mà không yêu cầu thời gian giữ ngạch theo quy định.
Về chính sách tiền lương, chế độ phúc lợi, căn cứ vào điều kiện của từng Bộ, ngành, địa phương, người đứng đầu cơ quan quản lý công chức quyết định áp dụng chính sách tiền lương, chế độ phúc lợi và các chính sách khác sau đây: chế độ lương tăng so với lương của ngạch công chức hiện hưởng. Kinh phí tăng thêm được xác định trong dự toán kinh phí chi thường xuyên và được phân bổ cho các cơ quan, tổ chức theo quy định của Luật Ngân sách; đặc cách nâng lương trước thời hạn từ 1 đến 2 bậc lương hoặc đặc cách xét nâng ngạch công chức nếu có thành tích đặc biệt xuất sắc; được thuê nhà công vụ hoặc vay tiền mua nhà trả góp theo bảo lãnh của cơ quan, tổ chức từ Ngân hàng Chính sách xã hội với lãi suất ưu đãi theo quy định của Chính phủ; vợ, chồng, con đẻ được ưu tiên bố trí làm việc, học tập tại cơ quan, tổ chức, cơ sở giao dục, đào tạo tại địa phương nơi người đó công tác; được giữ nguyên chế độ, chính sách như đi làm trong thời gian được cử đi đào tạo, bồi dưỡng. Trường hợp địa điểm học tập không ở địa phương nơi công tác thì còn được hưởng chế độ như đối với người được cử đi công tác; được đề xuất dự toán kinh phí thực hiện một công việc hoặc một nhiệm vụ cụ thể; được giao, quyết định việc sử dụng và chịu trách nhiệm việc sử dụng kinh phí của mình.
Dự thảo Nghị định cũng quy định chi tiết việc tiếp nhận viên chức, cán bộ, công chức cấp xã, người hưởng lương trong lực lượng vũ trang nhân dân, người làm công tác cơ yếu, người giữ chức vụ, chức danh lãnh đạo trong doanh nghiệp nhà nước để thực hiện chủ trương liên thông trong công tác cán bộ (Điều 18).
Quy định nguyên tắc kiểm định chất lượng đầu vào công chức; việc kiểm định chất lượng đầu vào công chức được thực hiện theo lộ trình, bảo đảm công khai, minh bạch, thiết thực, hiệu quả; quy định xét nâng ngạch đối với công chức.
Bên cạnh đó, trong thời gian qua, Bộ Chính trị đã ban hành các văn bản quy định về công tác cán bộ. Do vậy, để đồng bộ giữa quy định của Đảng và quy định của pháp luật về công tác cán bộ, trong đó có các nội dung quy định bổ nhiệm, bổ nhiệm lại, luân chuyển, từ chức, miễn nhiệm, thôi giữ chức vụ khi rà soát, sửa đổi, bổ sung các văn bản quy phạm pháp luật quy định về công tác cán bộ, đáp ứng các yêu cầu đổi mới công tác cán bộ theo tinh thần của Đảng tại các Nghị quyết Trung ương là cần thiết.
Ngoài ra, việc tuyển dụng công chức trong thời gian qua đã được đổi mới từ thi 4 môn thi (kiến thức chung, chuyên môn nghiệp vụ, ngoại ngữ, tin học) thành 2 vòng thi (vòng 1 là thi điều kiện với 3 nội dung thi kiến thức chung, ngoại ngữ và tin học; vòng 2 là thi chuyên môn nghiệp vụ), góp phần đơn giản hóa thủ tục hành chính, tăng cường tính công khai, minh bạch, nâng cao chất lượng trong công tác tuyển dụng công chức, gắn việc tuyển dụng công chức với người sử dụng công chức và với yêu cầu của vị trí việc làm cần tuyển dụng. Tuy nhiên, quy định hiện hành vẫn chưa được đổi mới về tiêu chuẩn, điều kiện chứng chỉ ngoại ngữ, tin học trong tuyển dụng, tuy rằng khi người đăng ký dự tuyển chưa phải nộp chứng chỉ (đăng ký tuyển dụng qua Phiếu đăng ký tuyển dụng) nhưng khi hoàn thiện hồ sơ tuyển dụng có yêu cầu về văn bằng, chứng chỉ hoặc đối với thi nâng ngạch công chức cũng vẫn còn quy định điều kiện nộp chứng chỉ ngoại ngữ, tin học trong hồ sơ dự thi.
Hiện nay, trong chương trình đào tạo tại một số cơ sở giáo dục đại học đã xây dựng chương trình đào tạo có quy định về chuẩn đầu ra ngoại ngữ khi tốt nghiệp mà quy định về chuẩn đầu ra đó lại phù hợp với yêu cầu về trình độ ngoại ngữ quy định trong tiêu chuẩn chuyên môn nghiệp vụ của ngạch công chức chuyên viên. Đồng thời, tại Nghị quyết số 100/2019/QH14 của Quốc hội về hoạt động chất vấn tại Kỳ họp thứ 8, Quốc hội khóa XIV cũng đã yêu cầu rà soát, hoàn thiện các quy định về trình độ ngoại ngữ, tin học trong tuyển dụng, thi, xét, nâng ngạch, thăng hạng viên chức, bổ nhiệm, bổ nhiệm lại nhằm bảo đảm đánh giá đúng trình độ, năng lực của cán bộ, công chức, viên chức và phù hợp với thực tiễn, gắn với vị trí việc làm. Do vậy, việc nghiên cứu để thay đổi quy định về tiêu chuẩn, điều kiện chứng chỉ ngoại ngữ, tin học trong tuyển dụng, nâng ngạch nâng ngạch công chức là cần thiết.
Mặt khác, trong thời gian qua, chính sách đặc thù đối với người dân tộc thiểu số được Đảng, Chính phủ đặc biệt quan tâm, ban hành các văn bản nhằm nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số. Tuy nhiên đã có những chính sách ưu tiên trong tuyển dụng nhưng tỷ lệ cán bộ, công chức người dân tộc thiểu số hiện vẫn chưa đáp ứng yêu cầu đặt ra. Tại Công văn số 11230/VPCP-TCCV ngày 10/12/2019 của Văn phòng Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ giao Bộ Nội vụ chủ trì nghiên cứu, rà soát, đề xuất sửa đổi, bổ sung chính sách về tuyển dụng, sử dụng và quản lý đối với cán bộ, công chức, viên chức người dân tộc thiểu số khi xây dựng các văn bản quy định chi tiết Luật số 52/2019/QH14. Do vậy, việc nghiên cứu để quy định chính sách ưu tiên trong tuyển dụng đối với người dân tộc thiểu số trong nội dung dự thảo Nghị định, từng bước nâng cao tỷ lệ đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức người dân tộc thiểu số tham gia vào các cơ quan của Nhà nước quy định tại Quyết định số 402/QĐ-TTg.
* Đề xuất tiêu chuẩn chức danh công chức lãnh đạo, quản lý trong cơ quan hành chính nhà nước
Theo dự thảo Nghị định, đối tượng điều chỉnh của Nghị định này là công chức trong các cơ quan hành chính nhà nước ở Bộ, cơ quan ngang Bộ, Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương; Ủy ban nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh, thành phố thuộc thành phố trực thuộc Trung ương, bao gồm 11 nhóm chức vụ (từ Thứ trưởng đến Trưởng, Phó phòng thuộc huyện).
Tiêu chuẩn áp dụng chung đối với các chức danh công chức lãnh đạo, quản lý, gồm: tiêu chuẩn chung về chính trị tư tưởng; tiêu chuẩn chung về đạo đức, lối sống, ý thức tổ chức kỷ luật và tiêu chuẩn chung về sức khỏe, độ tuổi. Nội dung này được xây dựng trên cơ sở khung tiêu chuẩn chức danh cán bộ lãnh  đạo quản lý tại Quy định số 89-QĐ/TW.
Về tiêu chuẩn đối với từng chức danh công chức lãnh đạo, quản lý trong cơ quan hành chính nhà nước, gồm 19 chức danh là: Thứ trưởng, Phó Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ; Tổng cục trưởng và tương đương thuộc Bộ; Phó Tổng cục trưởng và tương đương thuộc Bộ; Vụ trưởng và tương đương thuộc Bộ; Phó Vụ trưởng và tương đương thuộc Bộ; Vụ trưởng và tương đương thuộc Tổng cục; Phó Vụ trưởng và tương đương thuộc Tổng cục; Cục trưởng và tương đương thuộc Bộ; Phó Cục trưởng và tương đương thuộc Bộ; Cục trưởng và tương đương thuộc Tổng cục; Phó Cục trưởng và tương đương thuộc Tổng cục; Giám đốc sở và tương đương thuộc tỉnh; Phó Giám đốc sở và tương đương thuộc tỉnh; Trưởng phòng và tương đương của tổ chức thuộc Bộ; Phó Trưởng phòng và tương đương của tổ chức thuộc Bộ; Trưởng phòng và tương đương thuộc Tổng cục; Phó Trưởng phòng và tương đương của tổ chức thuộc Tổng cục; Trưởng phòng và tương đương thuộc sở; Phó Trưởng phòng và tương đương thuộc sở; Trưởng phòng và tương đương thuộc huyện; Phó Trưởng phòng và tương đương thuộc huyện.
Về vị trí chức trách gồm địa vị pháp lý, vị trí, chức năng, cơ chế thẩm quyền và cơ chế trách nhiệm. Về năng lực, phải có tầm nhìn, cụ thể hóa đường lối chính sách, xây dựng pháp luật; quản lý và tổ chức thực hiện chính sách và pháp luật của Nhà nước về ngành, lĩnh vực, chuyên ngành; lãnh đạo, quản lý; nghiên cứu khoa học; tổ chức quản lý cơ quan, đơn vị; tổ chức phối hợp.
Về kinh nghiệm công tác, yêu cầu phải có thời gian tối thiểu là 03 năm đảm nhiệm và hoàn thành tốt chức trách, nhiệm vụ của chức danh lãnh đạo, quản lý cấp dưới trực tiếp; đối với lãnh đạo cấp phòng thì phải có thời gian làm chuyên môn tối thiểu là 03 năm. Việc bổ sung quy định này là phù hợp với Quy định số 89-QĐ/TW và Quy định số 214-QĐ/TW, đồng thời hạn chế việc bổ nhiệm “thần tốc” đối với công chức giữ chức vụ lãnh đạo, quản lý.
Về trình độ, yêu cầu phải tốt nghiệp đại học trở lên phù hợp với ngành, lĩnh vực công tác; đối với lãnh đạo cấp vụ thuộc Bộ, cấp sở và Vụ trưởng thuộc Tổng cục yêu cầu trình độ cao cấp; đối với lãnh đạo cấp Vụ phó thuộc Tổng cục, Trưởng phòng yêu cầu trình độ trung cấp; đối với lãnh đạo cấp Phó phòng không quy định bắt buộc phải có trình độ lý luận chính trị để phù hợp với thực tế vì có nhiều trường hợp công chức được bổ nhiệm cấp phòng chưa phải là đảng viên hoặc theo Kết luận số 202-KL/TW về thi tuyển lãnh đạo, quản lý cấp phòng cho phép trường hợp chưa phải là đảng viên được dự thi.
Về trình độ quản lý, đề nghị yêu cầu phải bổ nhiệm vào một ngạch công chức tương ứng với yêu cầu của vị trí việc làm, đồng thời phải có chứng chỉ quản lý nhà nước theo chức danh bổ nhiệm (được quy định tại Khoản 5 Điều 17 Nghị định số 101/2017/NĐ-CP ngày 01/9/2017 của Chính phủ quy định về đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức, viên chức).
Về trình độ tin học, ngoại ngữ, đề nghị không quy định cụ thể mà thực hiện theo quy định riêng của từng Bộ, ngành, địa phương. Trường hợp công chức công tác ở địa phương có trên 50% đồng bào dân tộc thiểu số thì cho phép sử dụng tiếng dân tộc thay thế cho tiêu chuẩn ngoại ngữ.
Dự thảo Nghị định cũng quy định chuyển tiếp, trong thời hạn 02 năm đối với những người đã được bổ nhiệm chức vụ lãnh đạo, quản lý trước khi Nghị định này có hiệu lực thi hành, nếu còn thiếu tiêu chuẩn về trình độ theo quy định tại Nghị định này thì phải bổ sung đủ những tiêu chuẩn theo quy định; Trong thời gian này vẫn được xem xét bổ nhiệm lại…
* Đề xuất mới về xử lý kỷ luật cán bộ, công chức, viên chức
Theo đó, phạm vi điều chỉnh của Nghị định này quy định về thời hiệu, thời hạn xử lý kỷ luật; hình thức kỷ luật; thẩm quyền, trình tự, thủ tục xử lý kỷ luật đối với công chức, viên chức và việc áp dụng các quy định của Nghị định này để xử lý kỷ luật đối với một số trường hợp cán bộ có hành vi vi phạm mà pháp luật và điều lệ chưa quy định.
Về thời hiệu xử lý kỷ luật, 02 năm đối với hành vi vi phạm ít nghiêm trọng mà có thể bị xử lý kỷ luật bằng hình thức khiển trách; 05 năm đối với hành vi vi phạm không thuộc trường hợp quy định tại điểm a Khoản 1 Điều 5 Nghị định này. Thời hiệu xử lý kỷ luật được tính từ thời điểm có hành vi vi phạm cho đến thời điểm người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị có thẩm quyền ra thông báo bằng văn bản về việc xem xét xử lý kỷ luật.
Các hành vi vi phạm không áp dụng thời hiệu xử lý kỷ luật: cán bộ, công chức, viên chức là đảng viên có hành vi vi phạm đến mức phải kỷ luật bằng hình thức khai trừ; có hành vi vi phạm quy định về công tác bảo vệ chính trị nội bộ; có hành vi xâm hại đến lợi ích quốc gia trong lĩnh vực quốc phòng, an ninh, đối ngoại; sử dụng văn bản, chứng chỉ, giấy chứng nhận, xác nhận giả hoặc không hợp pháp.
Thời hạn xử lý kỷ luật tối đa là 90 ngày, tính từ ngày phát hiện công chức có hành vi vi phạm pháp luật cho đến ngày cơ quan, tổ chức, đơn vị có thẩm quyền ra quyết định xử lý kỷ luật; trường hợp vụ việc có những tình tiết phức tạp cần có thời gian thanh tra, kiểm tra để xác minh làm rõ thêm thì thời hạn xử lý kỷ luật có thể kéo dài nhưng tối đa không quá 150 ngày. Người có thẩm quyền ra quyết định kỷ luật quyết định bằng văn bản về việc kéo dài thời hạn.
Dự thảo Nghị định cũng quy định các hình thức kỷ luật đối với công chức không giữ chức vụ lãnh đạo, quản lý gồm 4 hình thức là: khiển trách, cảnh cáo, hạ bậc lương và buộc thôi việc. Đối với công chức giữ chức vụ lãnh đạo, quản lý gồm 5 hình thức là: khiển trách, cảnh cáo, giáng chức, cách chức và buộc thôi việc.
Đối với viên chức không giữ chức vụ quản lý nếu có hành vi vi phạm pháp luật, tùy theo mức độ vi phạm bị áp dụng một trong cách hình thức kỷ luật: khiển trách, cảnh cáo và buộc thôi việc. Viên chức quản lý nếu có hành vi vi phạm pháp luật, tùy theo mức độ vi phạm bị áp dụng một trong các hình thức: khiển trách, cảnh cáo, cách chức và buộc thôi việc. Viên chức bị kỷ luật bằng một trong các hình thức quy định tại Khoản 1, Khoản 2 Điều 15 Nghị định này còn có thể bị hạn chế thực hiện hoạt động nghề nghiệp theo quy định của pháp luật có liên quan.
Về thẩm quyền xử lý kỷ luật: đối với công chức, viên chức giữ chức vụ lãnh đạo, quản lý, người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị có thẩm quyền bổ nhiệm tiến hành xử lý kỷ luật và quyết định hình thức kỷ luật; đối với công chức, viên chức không giữ chức vụ lãnh đạo, quản lý, người đứng đầu cơ quan quản lý hoặc người đứng đầu cơ quan được phân cấp quản lý công chức; người đứng đầu đơn vị sự nghiệp quản lý viên chức tiến hành xử lý kỷ luật và quyết định hình thức kỷ luật; đối với công chức, viên chức biệt phái, người đứng đầu cơ quan nơi được cử đến biệt phái tiến hành xử lý kỷ luật, quyết định hình thức kỷ luật và gửi hồ sơ, quyết định kỷ luật về cơ quan quản lý công chức, viên chức biệt phái.
Đối với công chức, viên chức đã chuyển công tác mới phát hiện có hành vi vi phạm pháp luật mà còn trong thời hiệu quy định thì người đứng đầu có quan quản lý công chức, viên chức trước đây tiến hành xử lý kỷ luật, quyết định hình thức kỷ luật và gửi hồ sơ, quyết định kỷ luật về cơ quan đang quản lý công chức, viên chức…
Đồng thời, Bộ Nội vụ cũng đề xuất trong dự thảo Nghị định về trình tự, thủ tục xử lý kỷ luật gồm: thông báo xử lý kỷ luật; tổ chức họp kiểm điểm cán bộ, công chức, viên chức có hành vi vi phạm pháp luật; hội đồng kỷ luật; thành phần hội đồng kỷ luật; tổ chức họp hội đồng kỷ luật và quyết định kỷ luật.
Bên cạnh có, dự thảo Nghị định cũng quy định chi tiết các quy định khác liên quan đến kỷ luật gồm: các quy định liên quan khi xem xét xử lý kỷ luật; các quy định liên quan đến việc thi hành quyết định kỷ luật; chế độ, chính sách đối với cán bộ, công chức, viên chức có hành vi vi phạm pháp luật đang trong thời gian tạm giữ, tạm giam, tạm đình chỉ công tác và tạm đình chỉ chức vụ; khiếu nại.
Các dự thảo Nghị định này đang được Bộ Nội vụ đăng tải xin ý kiến tổ chức, cá nhân tại mục “Lấy ý kiến Nhân dân về dự thảo văn bản quy phạm pháp luật” trên cổng thông tin điện tử Bộ Nội vụ.

Nguồn: http://caicachhanhchinh.gov.vn/danh-muc/mot-so-de-xuat-moi-lien-quan-den-can-bo-cong-chuc-vien-chuc-8252.html

Phan Anh Hải
Xem tin theo ngày  
Thống kê truy cập
Tổng truy cập 6.945.332
Truy cập hiện tại 6.970