Tìm kiếm
Chuyển đổi số và cải cách hành chính
False 147Ngày cập nhật 26/06/2024

Sau khi Chương trình tổng thể cải cách hành chính (CCHC) nhà nước giai đoạn 2011 - 2020 được ban hành, các cơ quan hành chính nhà nước từ trung ương tới chính quyền địa phương các cấp đã triển khai thực hiện nghiêm túc theo chỉ đạo của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ. Hàng năm, Chính phủ, Ban Chỉ đạo đã đề ra các chương trình, kế hoạch CCHC mang tính toàn diện, đồng bộ và chỉ đạo các bộ, ngành, địa phương xây dựng, triển khai kế hoạch CCHC một cách thiết thực, cụ thể, phù hợp với Chương trình tổng thể và thực tiễn của các bộ, ngành, các tỉnh.

 

Hiệu quả chuyển đổi số (CĐS) mang lại cho công tác cải cách hành chính

Trong quá trình triển khai thực hiện Chương trình tổng thể, nhiều bộ, ngành và địa phương đã có những mô hình, sáng kiến ứng dụng công nghệ thông tin (CNTT), chuyển đổi số được nghiên cứu, áp dụng có hiệu quả. Từ năm 2015 đến nay, các bộ, ngành đã có khoảng 461 mô hình, sáng kiến CCHC; các tỉnh có khoảng 6.124 mô hình, sáng kiến CCHC, trung bình mỗi năm, mỗi tỉnh có hơn 16 mô hình, sáng kiến.

Một số mô hình tốt, như: Bộ Thông tin và Truyền thông triển khai thực hiện xây dựng và ban hành Chỉ số đánh giá thực hiện công việc (Key Performance Indicator - KPI) lĩnh vực quản lý và Chỉ số KPI đánh giá hiệu quả thực hiện nhiệm vụ của cán bộ, công chức thuộc bộ; Bộ Y tế đẩy mạnh ứng dụng CNTT trong việc kết nối các nhà thuốc tới Bộ Y tế, thông qua đó có thể quản lý chặt chẽ về chất lượng thuốc, giá thuốc và sử dụng thuốc an toàn, hợp lý; Bộ Công Thương xây dựng và đưa vào sử dụng phần mềm trực tuyến quản lý thông tin khoa học công nghệ; Bộ Kế hoạch và Đầu tư xây dựng cơ sở dữ liệu (CSDL) phục vụ công tác chỉ đạo điều hành của lãnh đạo Tổng cục Thống kê; xây dựng quy trình theo dõi việc thực hiện các nhiệm vụ CCHC tại cơ quan bộ; Bộ Xây dựng nghiên cứu, đưa vào sử dụng phần mềm quản lý năng lực hoạt động xây dựng, áp dụng rộng rãi trên 63 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương. 

Tại các tỉnh có một số điển hình, như: Mô hình Văn phòng Phát triển kinh tế tỉnh Ninh Thuận; mô hình chuyển giao dịch vụ hành chính công sang Bưu điện của tỉnh Đồng Tháp, An Giang, Hà Tĩnh...; giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng, khai thác thông tin trong giao dịch điện tử của Đảng ủy các xã, phường, thị trấn trên địa bàn tỉnh Lạng Sơn; ứng dụng CNTT vào công tác quản lý các tổ chức, cá nhân hoạt động sản xuất công nghiệp và kinh doanh thương mại trên địa bàn tỉnh Lạng Sơn; Bộ phận tiếp nhận và trả kết quả của Ủy ban nhân dân (UBND) Quận 12, TP. Hồ Chí Minh; Trung tâm Giám sát, điều hành đô thị thông minh tỉnh Thừa Thiên Huế; mô hình Tổng đài dịch vụ công (DVC) qua đầu số 1022 của một số địa phương, như: Đà Nẵng, Đồng Nai, Bình Dương, Đồng Tháp, TP. Hồ Chí Minh... Nhiều tỉnh, thành phố cũng đã có các sáng kiến, như: Nhắn tin thông báo cho người dân về kết quả giải quyết thủ tục hành chính (TTHC), ngày nhận chế độ chính sách, quy định về TTHC; xây dựng kênh tiếp nhận và xử lý phản ánh, kiến nghị của cá nhân, tổ chức qua mạng xã hội (Zalo, Facebook, Youtube); giải quyết TTHC lưu động ngày Thứ bảy vì dân; mô hình Hẹn giờ hướng dẫn thực hiện các TTHC tại nhà người dân; mô hình “cà phê doanh nhân”... 

Nhìn chung, đa số các mô hình, sáng kiến CCHC đã được triển khai, nhân rộng trong phạm vi của từng tỉnh, ngoài ra, cũng có nhiều mô hình, sáng kiến đã được các tỉnh tham khảo, áp dụng phù hợp với điều kiện thực tế của địa phương mình.

Hầu hết TTHC được các bộ, ngành, địa phương từng bước chuẩn hóa, công bố, niêm yết, công khai tại nơi tiếp nhận, giải quyết TTHC, công khai trên Cổng thông tin điện tử của bộ, ngành, địa phương và trên CSDL quốc gia về TTHC theo quy định, tạo thuận lợi cho cá nhân, tổ chức truy cập tìm hiểu, thực hiện thuận tiện, chính xác.

Cơ chế một cửa, một cửa liên thông, Trung tâm Phục vụ hành chính công và Bộ phận tiếp nhận và trả kết quả tập trung cấp tỉnh, cấp huyện đã được triển khai ở các địa phương theo các quy định pháp luật và đạt được những kết quả tích cực, tạo sự chuyển biến rõ nét trong giải quyết TTHC cho người dân, doanh nghiệp (DN). Triển khai Nghị định số 61/2018/NĐ-CP của Chính phủ về thực hiện cơ chế một cửa, một cửa liên thông trong giải quyết TTHC, đến nay 100% các bộ, ngành, địa phương đã hoàn thành việc kiện toàn Bộ phận Một cửa các cấp để giải quyết TTHC, trong đó, 59/63 địa phương thành lập Trung tâm Phục vụ hành chính công cấp tỉnh. Đặc biệt có địa phương đã thực hiện việc giải quyết TTHC theo phương thức “5 tại chỗ” như Trung tâm Phục vụ hành chính công tỉnh Quảng Ninh. Nhiều địa phương đã gắn kết chặt chẽ giữa việc thiết lập một cửa “vật lý” và một cửa điện tử để tạo thuận lợi cho người thực hiện như: Hà Nội, Quảng Ninh, Đồng Nai, Cà Mau, Bình Dương...

CCHC tác động tới CĐS

Nghị quyết số 76/NQ-CP ngày 15/7/2021 ban hành Chương trình tổng thể CCHC nhà nước giai đoạn 2021 - 2030, với mục tiêu chung là đẩy mạnh ứng dụng CNTT, công nghệ số để đổi mới phương thức quản lý, điều hành và xử lý công việc nhằm nâng cao tính công khai, minh bạch, chất lượng và hiệu quả hoạt động của các cơ quan nhà nước (CQNN), phục vụ người dân và DN ngày càng tốt hơn. Kết quả triển khai thời gian qua đã tạo ra một số chuyển biến mạnh mẽ trong CCHC: Các cơ quan, đơn vị thường xuyên họp, trao đổi công việc trực tuyến; tỷ lệ sử dụng văn bản điện tử giữa các cơ quan hành chính đạt ở mức cao, vận hành thông suốt từ trung ương đến cơ sở giúp việc trao đổi thông tin, xử lý công việc được nhanh chóng, tiết kiệm thời gian và chi phí; TTHC trên một số lĩnh vực đã được cải cách mạnh mẽ, người dân, DN có thể nộp hồ sơ thủ tục hành chính trực tuyến qua các Cổng dịch vụ công, theo dõi tiến độ giải quyết hồ sơ qua tin nhắn, thực hiện thanh toán trực tuyến và nhận kết quả tại nhà; cán bộ, công chức tùy theo thời điểm, tính chất công việc, có thể làm việc một cách chủ động, linh hoạt ở nhà hoặc cơ quan, trao đổi công việc trên môi trường điện tử,...

Cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư (CMCN 4.0), nhất là công nghệ số với xu hướng phát triển dựa trên nền tảng tích hợp của hệ thống kết nối số hóa - vật lý - sinh học với sự đột phá của Internet vạn vật (IoT) và trí tuệ nhân tạo (AI) đã và đang tạo đột phá trên nhiều lĩnh vực, làm thay đổi căn bản nền sản xuất của thế giới; mở ra nhiều cơ hội, đồng thời cũng đặt ra nhiều thách thức đối với mỗi quốc gia, tổ chức và cá nhân. Trong đó, đặt ra yêu cầu cấp bách đối với các Chính phủ là phải đẩy mạnh CCHC nhằm đổi mới phương thức quản trị, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội, kịp thời thích ứng với sự phát triển nhanh và mạnh mẽ của thời đại công nghệ số.

Một trong những mục tiêu về cải cách thể chế của Nghị quyết số 76/NQ-CP là: Hoàn thiện thể chế và các khung khổ pháp lý để thúc đẩy quá trình CĐS, phục vụ có hiệu quả việc xây dựng, phát triển Chính phủ số, nền kinh tế số và xã hội số.

Chính phủ đã ưu tiên nguồn lực, tập trung triển khai thực hiện hiệu quả các nhiệm vụ xây dựng và phát triển Chính phủ điện tử (CPĐT), Chính phủ số theo lộ trình, trong đó tập trung hoàn thiện khung pháp lý và các CSDL quốc gia, nền tảng ứng dụng nhằm đổi mới mạnh mẽ phương thức chỉ đạo điều hành, quản lý từ thủ công truyền thống chuyển sang điện tử và dựa trên dữ liệu số, nâng cao chất lượng hoạt động của cơ quan hành chính nhà nước và chất lượng cung ứng dịch vụ công cho người dân, tổ chức trên môi trường số. 

Từng bước hoàn thiện thể chế, chính sách phát triển ứng dụng CNTT trong hoạt động của CQNN (1), những thể chế, chính sách này bao trùm nhiều lĩnh vực ứng dụng CNTT, từ các chương trình, định hướng của quốc gia, xây dựng các phần mềm dùng chung trong các CQNN, nâng cấp mạng diện rộng của Chính phủ, đào tạo về CNTT cho cán bộ công chức, bắt đầu công tác xây dựng các CSDL quốc gia cho tới cung cấp, chia sẻ thông tin, DVC; CĐS và đô thị thông minh,... Nhiều hoạt động đã được triển khai như: Kiện toàn và đổi tên Ủy ban quốc gia về CPĐT thành Ủy ban quốc gia về CĐS (2); phê duyệt, ban hành: Chương trình CĐS quốc gia đến năm 2025, định hướng đến năm 2030 (3); Chiến lược phát triển CPĐT hướng tới Chính phủ số giai đoạn 2021 - 2025, định hướng đến năm 2030 (4); Kiến trúc CPĐT; Đô thị thông minh, Nghị định, Quyết định về định danh, xác thực điện tử được xây dựng và ban hành,...

Để phục vụ cho sự chỉ đạo, điều hành của các cơ quan hành chính, dựa trên Khung kiến trúc CPĐT Việt Nam, phiên bản 2.0, các bộ, cơ quan ngang bộ, địa phương đã xây dựng, ban hành và tổ chức triển khai thực hiện Kiến trúc Chính phủ điện tử và Kiến trúc ICT phát triển đô thị thông minh. Các bộ, ngành đã tích cực xây dựng các CSDL quốc gia và đã đạt được các kết quả quan trọng, góp phần hình thành lên CSDL phục vụ cho công tác chỉ đạo, điều hành của Chính phủ, đồng thời tạo điều kiện thuận lợi cho việc giải quyết TTHC cho người dân, tổ chức, DN, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý bộ máy nhà nước. 

Điển hình là các CSDL như: CSDL quốc gia về dân cư; CSDL quốc gia về đất đai, CSDL quốc gia về đăng ký DN; CSDL quốc gia về tài chính, bảo hiểm; dữ liệu hộ tịch điện tử toàn quốc; dữ liệu giáo dục; dữ liệu danh mục dùng chung của Bộ Y tế,... Nền tảng tích hợp, chia sẻ dữ liệu quốc gia đã được xây dựng, từng bước kết nối, chia sẻ dữ liệu giữa các bộ, ngành, địa phương.

Việc xây dựng, phát triển CPĐT, hướng tới Chính phủ số, CĐS đã góp phần thực hiện CCHC, tạo điều kiện thuận lợi cho người dân, doanh nghiệp tiếp cận với cơ quan hành chính nhà nước. Trong năm 2019 - 2020, một số hệ thống thông tin nền tảng phát triển CPĐT đã được chính thức đưa vào vận hành (Trục liên thông văn bản quốc gia; Hệ thống thông tin họp và xử lý công việc của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ; Cổng DVC quốc gia; Hệ thống thông tin báo cáo quốc gia và Trung tâm thông tin phục vụ chỉ đạo, điều hành của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ). Các nền tảng, hệ thống thông tin trên được đưa vào vận hành giúp tiết kiệm chi phí xã hội và nhận được phản hồi tích cực của xã hội.

Cải cách TTHC được xác định là một khâu trọng tâm, đột phá và đã được triển khai mạnh mẽ ở tất cả các cấp hành chính theo hướng đơn giản hoá, tạo môi trường thuận lợi, thông thoáng cho phát triển kinh tế - xã hội. Các nội dung gắn kết đồng bộ giữa cải cách TTHC và xây dựng CPĐT tạo điều kiện thuận lợi hơn cho người dân, DN tiếp cận với cơ quan hành chính nhà nước. Các bộ, ngành và địa phương đã thực hiện tương đối tốt việc tiếp nhận, xử lý phản ánh, kiến nghị của cá nhân, tổ chức về quy định hành chính theo quy định của pháp luật.

Bên cạnh đó, Hệ thống tiếp nhận, trả lời kiến nghị của DN và người dân trên Cổng Thông tin điện tử Chính phủ tại các địa chỉ: http://doanhnghiep.chinhphu.vn; http://nguoidan.chinhphu.vn và trên Cổng DVC quốc gia tại địa chỉ: http://pakn.dichvucong.gov.vn, qua đó giúp Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ nắm bắt được các vấn đề phát sinh từ phía người dân và cộng đồng DN để chỉ đạo, giải quyết kịp thời, nhằm kịp thời tháo gỡ khó khăn, vướng mắc, tăng cường kỷ luật kỷ cương hành chính.

Về công bố, công khai TTHC: Từ đầu năm 2021 đến cuối tháng 9/2021, các bộ, ngành, địa phương đã ban hành 1915 quyết định công bố TTHC sửa đổi, bổ sung, thay thế, bãi bỏ thuộc phạm vi quản lý; đồng thời, công khai, cập nhật danh mục và nội dung TTHC thuộc phạm vi quản lý của bộ, cơ quan, địa phương mình trên Cổng DVC quốc gia và các kênh thông tin khác theo quy định, tạo điều kiện thuận lợi cho người dân, doanh nghiệp tra cứu, tìm hiểu và thực hiện TTHC. Thống kê trên Cổng DVC quốc gia, tại thời điểm cuối tháng 9/2021, có 3.835 TTHC thực hiện tại bộ, cơ quan Trung ương, 1.458 TTHC thực hiện tại địa phương và 1.564 TTHC thực hiện ở các cơ quan ngành dọc tại địa phương. 

Việc giải quyết TTHC trên Cổng DVC quốc gia tiếp tục có những chuyển biến tích cực. Tính đến ngày 24/9/2021, đã có 3.112 TTHC được cung cấp trực tuyến trên Cổng DVC quốc gia, trong đó, có 1.702 TTHC của người dân và 1.708 TTHC của doanh nghiệp; đã có 74,6 triệu hồ sơ đồng bộ trạng thái và có 1,8 triệu hồ sơ trực tuyến thực hiện qua Cổng DVC quốc gia. Đáng chú ý, Bình Phước và Quảng Nam là hai địa phương đứng đầu cả nước về số lượng TTHC tích hợp, cung cấp trên Cổng DVC quốc gia, nhưng số lượng hồ sơ trực tuyến thực hiện lại khá thấp, chỉ đạt lần lượt là 5,1 nghìn hồ sơ và 1,7 nghìn hồ sơ; TP. Hồ Chí Minh có số lượng TTHC được tích hợp, cung cấp và số lượng hồ sơ trực tuyến thực hiện qua Cổng DVC quốc gia ít nhất cả nước, với 22 TTHC được tích hợp và 162 hồ sơ thực hiện.

Theo Báo cáo Chỉ số CCHC – PAR Index năm 2020, đối với các bộ, cơ quan ngang bộ: Chỉ số thành phần “Cải cách TTHC” có giá trị tăng cao thứ hai trong số 07 chỉ số thành phần, tăng 5,03% so với năm 2019, đạt giá trị 89,72% ở năm 2020. Tiêu chí thực hiện cơ chế một cửa, cơ chế một cửa liên thông có 17/17 bộ đạt tỷ lệ 100% điểm số; đối với các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương: Chỉ số thành phần “Cải cách TTHC” đạt giá trị trung bình xếp thứ nhất, với kết quả là 94,11%. Xếp thứ 2 là Chỉ số thành phần “Chỉ đạo điều hành CCHC”, đạt 89,71%, cao hơn 6,07% so với năm 2019. Tiếp theo là Chỉ số thành phần “Xây dựng và tổ chức thực hiện văn bản quy phạm pháp luật của tỉnh”, đạt giá trị trung bình là 87,82%. Chỉ số thành phần “Hiện đại hóa hành chính” năm 2020 tiếp tục có nhiều cải thiện, cả về thứ hạng và điểm số, đạt 85,15%, cao hơn 5,04% so với năm 2019, xếp vị trí thứ 4/8 chỉ số thành phần (năm 2019 xếp vị trí thứ 5/8). Kết quả trên cũng phản ánh đúng thực tế khi năm 2020, vấn đề về xây dựng CPĐT, chính quyền thông minh đã được Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ quan tâm chỉ đạo rất quyết liệt. Đứng ở vị trí thứ 5 là Chỉ số thành phần “Xây dựng và nâng cao chất lượng cán bộ, công chức, viên chức”, đạt 85,10%. Đáng chú ý, Chỉ số thành phần “Cải cách tổ chức bộ máy hành chính” xếp vị trí thứ 6 nhưng lại là chỉ số có sự tăng trưởng lớn nhất, đạt 84,41%, cao hơn 8,12% so với năm 2019.

Một số tồn tại trong triển khai ứng dụng CNTT phục vụ CCHC

Bên cạnh những kết quả đã đạt được, danh mục TTHC trong CSDL quốc gia về TTHC còn chưa được các bộ, ngành, địa phương đồng bộ đầy đủ trên Trang/Cổng Thông tin điện tử của bộ, cơ quan, địa phương; Tỷ lệ hồ sơ dịch vụ công trực tuyến, giao dịch thanh toán trực tuyến còn thấp so với số lượng hồ sơ trực tiếp và giao dịch thanh toán bằng tiền mặt; kết nối, chia sẻ dữ liệu trong giải quyết TTHC, cung cấp DVC còn yếu; số lượng TTHC thuộc thẩm quyền giải quyết của cấp bộ, cấp tỉnh còn lớn (cấp bộ chiếm tới 58% tổng số TTHC); việc xã hội hóa dịch vụ hành chính công đã triển khai ở một số ngành, lĩnh vực (đăng kiểm; công chứng,...) nhưng vẫn còn chậm, thiếu tổng thể.

Việc liên thông, kết nối, chia sẻ dữ liệu giữa các phần mềm quản lý chuyên ngành của một số bộ, ngành với phần mềm một cửa điện tử của các địa phương còn bất cập, gây khó khăn cho các địa phương trong giải quyết TTHC cho người dân, doanh nghiệp. Một số địa phương công khai số liệu, kết quả giải quyết TTHC trên phần mềm còn chưa đúng so với kết quả kiểm tra thực tế.

CĐS cần tái cấu trúc quy trình nghiệp vụ và thủ tục hành chính mạnh hơn nữa để tin học hóa các quy trình nghiệp vụ các TTHC được thực hiện tốt hơn, hiệu quả hơn.

CĐS đòi hỏi phải có hạ tầng, nguồn lực để đáp ứng và thích nghi với giai đoạn mới vì vậy cần có sự quyết tâm của các cấp lãnh đạo trong việc đầu tư về hạ tầng, về đào tạo, bồi dưỡng cho đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức thực hiện nhiệm vụ trong môi trường mới.

Đề xuất nội dung thúc đẩy gắn kết giữa CĐS với CCHC

Trên cơ sở kết quả đạt được, những vấn đề còn tồn tại trong công tác ứng dụng CNTT và CCHC, để nâng cao hơn nữa hiệu quả gắn kết giữa CĐS với CCHC nhằm phục vụ việc xây dựng thành công CPĐT, hướng tới Chính phủ số, bài báo đề xuất các nội dung như dưới đây để các CQNN xem xét triển khai.

Một là: CCHC gắn với nâng cao nhận thức, đổi mới tư duy và hành động sáng tạo; đổi mới lề lối làm việc, phương thức quản trị hiện đại, trên cơ sở đẩy mạnh ứng dụng công nghệ số, gắn kết chặt chẽ giữa CĐS, CPĐT, Chính phủ số với CCHC, cải cách TTHC; trong đó, CCHC có vai trò dẫn dắt, ứng dụng CNTT là công cụ; tận dụng có hiệu quả thành tựu, tiến bộ khoa học và công nghệ, nhất là những thành tựu của cuộc CMCN lần thứ tư, với lộ trình, bước đi phù hợp, tránh mọi biểu hiện bàng quan, thiếu tự tin, thụ động, nhưng không nóng vội, chủ quan, duy ý chí. 

Hai là: Tích hợp, cắt giảm mạnh các mẫu đơn, tờ khai và các giấy tờ không cần thiết hoặc có nội dung thông tin trùng lặp trên cơ sở ứng dụng các công nghệ số và các CSDL sẵn có. Tổ chức triển khai có kết quả Chương trình cắt giảm, đơn giản hóa các quy định liên quan đến hoạt động kinh doanh giai đoạn 2020 - 2025.

Ba là: Cải cách hoạt động kiểm tra chuyên ngành đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu theo hướng tăng cường kết nối, chia sẻ thông tin giữa các cơ quan quản lý nhà nước; ứng dụng tối đa các hệ thống CNTT để đơn giản hóa, hiện đại hóa thủ tục kiểm tra, bảo đảm minh bạch thông tin.

Bốn là: Thường xuyên, kịp thời cập nhật, công khai TTHC dưới nhiều hình thức khác nhau, tạo thuận lợi cho người dân, tổ chức tìm hiểu và thực hiện. Vận hành và khai thác có hiệu quả CSDL TTHC trên Cổng DVC quốc gia. Hoàn thành đổi mới thực hiện cơ chế một cửa, một cửa liên thông trong giải quyết TTHC theo quy định.

Năm là: Hoàn thành kết nối Cổng Thông tin một cửa quốc gia với Cổng DVC quốc gia; đẩy mạnh thực hiện các thủ tục kiểm tra chuyên ngành và thanh toán các khoản phí liên quan đến kiểm tra chuyên ngành trên Cổng DVC quốc gia. Hoàn thành xây dựng và vận hành có hiệu quả CSDL hộ tịch điện tử, đảm bảo thống nhất với CSDL quốc gia về dân cư. 

Sáu là: Tiếp tục đổi mới việc thực hiện cơ chế một cửa, một cửa liên thông trong giải quyết TTHC theo hướng không phụ thuộc vào địa giới hành chính, gắn với số hóa và sử dụng kết quả số hóa hồ sơ, giấy tờ, kết quả giải quyết TTHC; kịp thời giải quyết các phản ánh kiến nghị về các quy định TTHC, tránh gây bức xúc, tạo dư luận không tốt trong nhân dân.

Bảy là: Rà soát, thống kê và đơn giản hóa các TTHC nội bộ giữa các cơ quan hành chính nhà nước.

Tám là: Rà soát, cập nhật, sửa đổi, bổ sung, xây dựng khung pháp lý của bộ, ngành, địa phương hỗ trợ xây dựng, phát triển Chính phủ số và Chính quyền số các cấp. Nghiên cứu, xây dựng Luật Chính phủ số và các văn bản hướng dẫn thi hành để triển khai thực hiện. Ban hành quy định về định danh và xác thực điện tử, hoàn thiện hành lang pháp lý để phổ cập danh tính số. Xây dựng các chính sách, quy định pháp lý về thuế, phí nhằm khuyến khích người dân, DN sử dụng, cung cấp các dịch vụ số.

Chín là: Phát triển hạ tầng, dữ liệu đáp ứng nhu cầu triển khai CPĐT, hướng tới Chính phủ số, CĐS tại các bộ, ngành, địa phương. Tái cấu trúc hạ tầng CNTT, chuyển đổi hạ tầng CNTT thành hạ tầng số ứng dụng công nghệ điện toán đám mây phục vụ kết nối, quản lý các nguồn lực, dữ liệu của CQNN một cách an toàn, linh hoạt, ổn định và hiệu quả. Phát triển hạ tầng IoT phục vụ các ứng dụng nghiệp vụ, chuyên ngành trong triển khai CPĐT hướng tới Chính phủ số, CĐS, gắn kết với phát triển đô thị thông minh tại các địa phương.

Mười là: Phát triển Nền tảng tích hợp, chia sẻ dữ liệu cấp bộ/tỉnh (LGSP) kết nối các hệ thống thông tin, CSDL trong nội bộ của bộ, ngành, địa phương và kết nối với Nền tảng tích hợp, chia sẻ dữ liệu quốc gia (NDXP) theo Khung Kiến trúc Chính phủ điện tử Việt Nam để trao đổi, chia sẻ dữ liệu với các cơ quan bên ngoài. Bảo đảm an toàn, an ninh mạng cho các hệ thống thông tin của bộ, ngành, địa phương. Phát triển các hệ thống đặc thù sử dụng trong phạm vi toàn ngành, địa phương để tiết kiệm thời gian, chi phí triển khai, tạo điều kiện kết nối, chia sẻ dữ liệu,... Xây dựng, phát triển Nền tảng ứng dụng trên thiết bị di động hỗ trợ người dân, DN sử dụng các dịch vụ, tiện ích trong CPĐT, Chính phủ số, CĐS.

Mười một là: Phát triển các CSDL chuyên ngành phục vụ ứng dụng, dịch vụ Chính phủ số, Chuyển đổi số trong nội bộ của bộ, ngành, địa phương; thực hiện chia sẻ hiệu quả dữ liệu chuyên ngành của các bộ, ngành với các địa phương; mở dữ liệu của các cơ quan nhà nước theo quy định của pháp luật. Xây dựng kho dữ liệu để lưu trữ dữ liệu điện tử của các công dân khi thực hiện các giao dịch trực tuyến với các CQNN trên Cổng DVC quốc gia và hệ thống thông tin giải quyết TTHC cấp bộ, cấp tỉnh. Xây dựng Hệ thống phân tích, xử lý dữ liệu tổng hợp cấp bộ, cấp tỉnh nhằm lưu trữ tập trung, tổng hợp, phân tích, xử lý dữ liệu số từ các nguồn khác nhau, từ đó tạo ra thông tin mới, dịch vụ dữ liệu mới phục vụ CPĐT hướng tới Chính phủ số, CĐS.

Mười hai là: Phát triển hệ thống thông tin phục vụ sự chỉ đạo, điều hành của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ. Tiếp tục phát triển, hoàn thiện Trục liên thông văn bản quốc gia thành nền tảng kết nối, chia sẻ dữ liệu số, kết nối các hệ thống thông tin, CSDL của các bộ, ngành, địa phương phục vụ sự chỉ đạo, điều hành của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ. Phát triển, hoàn thiện Hệ thống thông tin phục vụ họp và xử lý công việc của Chính phủ, phục vụ chỉ đạo, điều hành của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, tiến tới triển khai phục vụ chỉ đạo, điều hành của Ủy ban nhân dân các cấp. 

Phát triển, hoàn thiện Hệ thống thông tin báo cáo Chính phủ, Trung tâm thông tin, chỉ đạo điều hành của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ kết nối, tích hợp theo thời gian thực với các hệ thống thông tin, CSDL của các bộ, cơ quan, địa phương tại các cấp chính quyền; Hệ thống phần mềm quản lý CSDL theo dõi về thực hiện nhiệm vụ do Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ giao, kết nối, liên thông với các hệ thống quản lý văn bản và điều hành của bộ, ngành, địa phương; Chuẩn hóa, điện tử hóa quy trình nghiệp vụ xử lý hồ sơ trên môi trường mạng, biểu mẫu, chế độ báo cáo; tăng cường gửi, nhận văn bản, báo cáo điện tử tích hợp chữ ký số giữa các cơ quan quản lý nhà nước, các tổ chức chính trị - xã hội và các DN; thực hiện số hóa hồ sơ, lưu trữ hồ sơ công việc điện tử của các CQNN theo quy định. 

Phát triển các ứng dụng, dịch vụ nghiệp vụ, chuyên ngành phục vụ nội bộ và kết nối, chia sẻ dữ liệu với các hệ thống thông tin trong và ngoài bộ, ngành, địa phương theo nhu cầu. Đẩy mạnh việc sử dụng chữ ký số, định danh số, CĐS và niêm phong điện tử trong xử lý văn bản hành chính, cắt giảm giấy tờ, nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước, đơn giản hóa quy trình nghiệp vụ. 

Phát triển các hệ thống làm việc tại nhà, từ xa của các CQNN. Ứng dụng mạnh mẽ, hiệu quả các công nghệ số mới như điện toán đám mây (Cloud Computing), dữ liệu lớn (Big Data), Internet vạn vật (IoT), trí tuệ nhân tạo (AI), chuỗi khối (Blockchain), mạng xã hội và các công nghệ số mới trong xây dựng, triển khai các ứng dụng, dịch vụ CPĐT, CĐS tại các bộ, ngành, địa phương.

Mười ba là: Phát triển, hoàn thiện Cổng DVC quốc gia, Hệ thống thông tin giải quyết TTHC cấp bộ, cấp tỉnh trên cơ sở hợp nhất Cổng DVC và Hệ thống thông tin một cửa điện tử của các bộ, ngành, địa phương để cung cấp DVC trực tuyến; hoàn thành việc tích hợp toàn bộ DVC trực tuyến mức độ 3, 4 lên Cổng DVC quốc gia. 

Hoàn thiện CSDL về các quy định liên quan đến hoạt động kinh doanh và Cổng tham vấn điện tử theo Chương trình cắt giảm, đơn giản hóa các quy định liên quan đến hoạt động kinh doanh giai đoạn 2020 - 2025. Xây dựng các kênh tương tác trực tuyến để người dân tham gia, giám sát hoạt động xây dựng, thực thi chính sách, pháp luật, ra quyết định của CQNN. Phát triển, tích hợp các ứng dụng thanh toán điện tử, đa dạng hóa các phương thức thanh toán không dùng tiền mặt để phổ cập, tăng khả năng tiếp cận dịch vụ thanh toán điện tử một cách rộng rãi tới tất cả người dân.

Mười bốn là: Phát triển các dịch vụ đô thị thông minh phù hợp điều kiện, đặc thù, nhu cầu thực tế. Ưu tiên phát triển trước các dịch vụ giải quyết các vấn đề bức thiết của xã hội tại các đô thị như tắc nghẽn giao thông, ô nhiễm môi trường, phát triển du lịch, phát triển y tế, phát triển giáo dục, quản lý trật tự xây dựng và phải bảo đảm hiệu quả, tránh hình thức, lãng phí. Lựa chọn đô thị điển hình của tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương để triển khai thử nghiệm một số dịch vụ trên nền tảng đô thị thông minh; kịp thời sơ kết đánh giá và nhân rộng các mô hình hiệu quả, phù hợp với điều kiện thực tiễn.

1. Nghị định số 64/2007/NĐ-CP ngày 10/4/2007 của Chính phủ về UDCNTT trong hoạt động của cơ quan nhà nước; Quyết định số 1605/QĐ-TTg ngày 27/8/2010 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chương trình quốc gia về UDCNTT trong hoạt động của CQNN giai đoạn 2011 - 2015; Quyết định số 714/QĐ-TTg ngày 22/5/2015 của Thủ tướng Chính phủ ban hành Danh mục CSDL quốc gia cần ưu tiên triển khai tạo nền tảng phát triển CPĐT; Nghị quyết số 36a/NQ-CP ngày 14/10/2015 của Chính phủ về CPĐT; Quyết định số 1819/QĐ-TTg ngày 26/10/2015 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chương trình quốc gia về ứng dụng CNTT trong hoạt động của CQNN giai đoạn 2016 - 2020; Quyết định số 153/QĐ-TTg ngày 30/01/2018 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chương trình mục tiêu CNTT giai đoạn 2016 - 2020; Quyết định số 28/2018/QĐ-TTg ngày 12/7/2018 của Thủ tướng Chính phủ về việc gửi, nhận văn bản điện tử giữa các cơ quan trong hệ thống hành chính nhà nước; Quyết định số 950/QĐ-TTg ngày 01/8/2018 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án phát triển đô thị thông minh bền vững Việt Nam giai đoạn 2018 - 2025 và định hướng đến năm 2030; Nghị định số 73/2019/NĐ-CP ngày 05/9/2019 của Chính phủ quy định quản lý đầu tư UDCNTT sử dụng nguồn vốn ngân sách nhà nước; Nghị định số 45/2020/NĐ-CP ngày 08/4/2020 của Chính phủ về thực hiện TTHC trên môi trường điện tử; Nghị định số 47/2020/NĐ-CP ngày 09/4/2020 của Chính phủ về quản lý, kết nối và chia sẻ dữ liệu số của CQNN; Quyết định số 31/2021/QĐ-TTg ngày 11/10/2021 của Thủ tướng Chính phủ ban hành Quy chế quản lý, vận hành, khai thác Cổng DVC quốc gia,...

2. Quyết định số 1619/QĐ-TTg ngày 24/9/2021 của Thủ tướng Chính phủ.

3. Quyết định số 749/QĐ-TTg ngày 03/6/2020 của Thủ tướng Chính phủ.

4. Quyết định số 942/QĐ-TTg ngày 15/6/2021 của Thủ tướng Chính phủ.

Tài liệu tham khảo:

1. Nghị quyết số 52-NQ/TW ngày 27/9/2019 của Bộ Chính trị về một số chủ trương, chính sách chủ động tham gia cuộc CMCN lần thứ tư.

2. Nghị quyết số 30c/NQ-CP ngày 08/11/2011 của Chính phủ ban hành Chương trình tổng thể CCHC nhà nước giai đoạn 2011 - 2020.

3. Nghị quyết số 17/NQ-CP ngày 07/3/2019 của Chính phủ về một số nhiệm vụ, giải pháp trọng tâm phát triển CPĐT giai đoạn 2019 - 2020, định hướng đến 2025.

4. Nghị quyết số 50/NQ-CP ngày 17/4/2020 ban hành Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết số 52-NQ/TW ngày 27 tháng 9 năm 2019 của Bộ Chính trị về một số chủ trương, chính sách chủ động tham gia cuộc CMCN lần thứ tư.

5. Nghị quyết số 76/NQ-CP ngày 15/7/2021 của Chính phủ ban hành Chương trình tổng thể cải cách hành chính nhà nước giai đoạn 2021 - 2030.

6. Quyết định số 950/QĐ-TTg ngày 01/8/2018 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án phát triển đô thị thông minh bền vững Việt Nam giai đoạn 2018 - 2025 và định hướng đến năm 2030

7. Quyết định số 749/QĐ-TTg ngày 03/6/2020 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt chương trình CĐS quốc gia đến năm 2025, định hướng đến năm 2030.

8. Quyết định số 942/QĐ-TTg ngày 15/6/2021 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chiến lược phát triển CPĐT hướng tới Chính phủ số giai đoạn 2021-2025, định hướng đến năm 2030.

9. Báo cáo số 128/BC-CP ngày 19/4/2021 của Chính phủ tổng kết Chương trình tổng thể CCHC nhà nước giai đoạn 2011 - 2020 và định hướng giai đoạn 2021 - 2030.

10. Báo cáo số 104/BC-BTTTT ngày 28/10/2021 của Bộ Thông tin và Truyền thông về tình hình thực hiện Nghị quyết số 17/NQ-CP ngày 07/3/2019 của Chính phủ về một số nhiệm vụ, giải pháp trọng tâm phát triển CPĐT giai đoạn 2019 - 2020, định hướng đến 2025.

Ths. Lê Thanh Tùng, Phó Giám đốc, Trung tâm Thông tin, Bộ Nội vụ

Ths. Nguyễn Mạnh Tuyền, Chuyên viên chính, Vụ Cải cách hành chính, Bộ Nội vụ

Phan Anh Hải - Phòng VHTT huyện
Các tin khác
Xem tin theo ngày  
Thống kê truy cập
Tổng truy cập 7.050.575
Truy cập hiện tại 6.113